Blogger Widgets
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đào Tiến Thi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đào Tiến Thi. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 20 tháng 11, 2013

HÔM NAY, KỶ NIỆM 140 NĂM NGÀY HÀ THÀNH THẤT THỦ LẦN THỨ NHẤT



Kỷ niệm 140 năm ngày Hà thành thất thủ lần thứ nhất

(20-11-1873 – 20-11-2013)



VỀ CUỘC HÀ NỘI THẤT THỦ LẦN THỨ NHẤT

(20-11-1873)

Đào Tiến Thi

Nếu Việt Nam bấy giờ biết chăm lo tu chỉnh về quân chính, mở rộng dân quyền, vua tôi trên dưới đều mạnh mẽ mưu trị nước, nghiên cứu sâu trí học của ngoại dương, tẩy trừ khuôn khổ hủ lậu, “kịp thời chưa mưa dầm lấy những gốc dâu mà gài cửa sổ”, nước còn có thể phấn chấn lên được. Nhưng nước Việt Nam mơ màng đôi mắt ngủ, uể oải một thân bệnh, tôn quân quyền, ức dân quyền (...), chủ nhân nằm dài trên giường luôn luôn ngáp dài mệt mỏi. Than ôi, Nguy ngập lắm thay.

(Phan Bội Châu)

I- VIỆT NAM NHỮNG NĂM SAU HOÀ ƯỚC NHÂM TUẤT (1862)
Hoà ước Nhâm Tuất (1862) ra đời sau khi quân Pháp chiếm được thành Gia Định. Gọi là “Hoà ước” cho văn vẻ chứ thực chất là một hiệp ước đầu hàng, một hiệp ước bán nước nhục nhã đầu tiên của triều Nguyễn đứng đầu là vua Tự Đức ký với thực dân Pháp và Tây Ban Nha. Hai điểm nặng nề nhất trong hiệp ước này là việc triều đình nhượng 3 tỉnh miền Đông (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và việc Việt Nam không được tự đặt ngoại giao với nước nào nếu không được sự đồng ý của Pháp.

Sau đó Tự Đức cũng tiếc nên cử phái đoàn do Phan Thanh Giản cầm đầu sang Pháp xin chuộc lại. Việc này lại là một sai lầm nghiêm trọng tiếp theo. Bởi vì thực tế lúc này thực dân Pháp đang sa lầy vào cuộc chiến tranh Mehico vô cùng hao người tốn của, không thể tiếp viện cho chiến trường Việt Nam. Nếu triều đình tận dụng cơ hội này, có thể đánh bật hoàn toàn quân Pháp ra khỏi ba tỉnh miền Đông. Nhưng do hy vọng mù quáng vào cuộc thương thuyết, triều đình đã đàn áp phong trào kháng chiến của nhân dân miền Đông và cũng chẳng phòng bị gì cho ba tỉnh miền Tây. Vì vậy, khi cuộc chiến Mehico vừa chấm dứt, quân Pháp tiến công luôn ba tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) và chiếm được rất dễ dàng trước sự ngơ ngác của vua quan ta (1867).

Mất Nam Kỳ là mất “thiên phủ” (kho trời) vô cùng giàu có, làm cho đất nước suy yếu nhưng chưa phải là mất hết hy vọng. Theo Phan Bội Châu: “Bấy giờ toàn hạt (Bắc Kỳ và Trung Kỳ - ĐTT) 30 tỉnh chưa động đậy gì, binh tài sung túc, ví bằng người phụng mệnh giảng hoà có can đảm, có cơ mưu, chỉ y theo điều ước trước cho thông thương và cho giảng đạo, cương quyết tranh biện, thì cũng chưa đến nỗi mất hết”.

Thế nhưng suốt 7 năm sau khi mất Nam Kỳ, triều đình chẳng làm gì để củng cố đất nước. Bắc Kỳ vẫn chịu cảnh đói kém và cảnh giặc giã liên miên bởi các toán thổ phỉ Cờ Vàng, Cờ Đen, Cờ Trắng từ Trung Quốc tràn sang. Loay hoay không dẹp được ba toán giặc trên nhưng triều đình vẫn tiếp tục đàn áp khốc liệt các cuộc khởi nghĩa của nông dân, vẫn gác bỏ ngoài tai các đề nghị cải cách của các sỹ phu tiến bộ.

Lợi dụng tình hình đó, thực dân Pháp ráo riết tiến hành các hoạt động do thám và cài cắm các “con ngựa thành Troa” trên đất Bắc. Tiêu biểu nhất là chúng khuyến khích tên lái buôn Jean Dupuis (Đồ Phổ Nghĩa) mượn cớ buôn bán để do thám và xây dựng lực lượng dọc theo sông Hồng, suốt từ cửa Cấm lên Vân Nam (Trung Quốc). Dọc đường sông, J. Dupuis tự tuyển mộ quân (bằng cách lôi kéo các thương nhân Hoa Kiều, bọn thổ phỉ Tàu và một số người Công giáo), ngang ngược sách nhiễu nhân dân, xé bố cáo của quan sở tại (bố cáo ngăn cấm người Tây Dương đi lại tuỳ tiện), có khi bắt cả quan sở tại xuống thuyền giam lại.

Nhìn chung các viên quan địa phương nơi bị J. Dupuis tuỳ tiện đi lại hoặc sách nhiễu luôn ở tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Không xử lý thì bị quở trách, xử lý cũng bị quở trách là “không khéo léo”. Các chiếu chỉ của Tự Đức cũng chẳng bao giờ thể hiện quan điểm rõ ràng, dứt khoát. Ví dụ, tháng 8-1873, khi J. Dupuis chở vũ khí và hàng hoá lên Vân Nam, Nguyễn Tri Phương lệnh cho quan Bố chính Vũ Đường mời hắn đến sứ quán nói chuyện. Dupuis lấy cớ “đi vắng”, giao cho Lý Ngọc Trì (một viên quan của nhà Thanh) tiếp, nhưng Trì cũng cáo ốm. Vũ Đường đòi khám tàu, giữ lại vũ khí, chỉ cho đem hàng hoá đi. Bọn quan lại nhà Thanh trên tàu vẫn không nghe. Việc tâu về triều, Tự Đức quở trách Nguyễn Tri Phương là “khiêu khích sinh sự”. Liền sai Binh bộ hữu Tham tri Phan Đình Bình ra Hà Nội giải quyết việc của J. Dupuis. Tự Đức dặn Bình: “Thuyền của Phổ Nghĩa (J. Dupuis) sắp sửa đến Vân Nam, rất đáng lo. Nguyễn Tri Phương tuổi cao tính cố chấp, Bùi Thức Kiên gặp việc hoảng hốt (...), ngươi đi chuyến này nên tuỳ cơ làm khéo, khiến cho hắn (J. Dupuis) vui lòng nghe; phàm mọi việc để lỡ đều do Nguyễn Tri Phương yêu cầu khắt khe nên mới đến thế. Trước đã lỡ việc, nay phải xử trí cho khéo” (Đại Nam thực lục).  

Vì vậy đến cuối năm 1872, “con ngựa thành Troa” J. Dupuis đã trở thành một lực lượng quân sự khá lớn gồm 2 tàu máy, 30 đại bác, 7000 súng tay, 15 tấn đạn và hơn 100 lính được vũ trang đầy đủ. Chính lực lượng này là “tiền trạm” và hậu thuẫn cho Francis Garnier tấn công thành Hà Nội và một số tỉnh Bắc Kỳ vào năm 1873.

II- HÀ THÀNH THẤT THỦ, NGUYỄN TRI PHƯƠNG TỬ TIẾT

Phải nói rằng đế quốc Pháp trong những năm 1870 – 1873 chưa có ý định mở rộng đánh chiếm lãnh thổ Việt Nam. Bởi vì họ vừa mới thua Phổ rất nặng nề[1]. Nhưng sự nóng lòng “thông thương” của J. Dupuis cộng với sự ươn hèn của triều đình Nguyễn đã kích thích một số tên thực dân “diều hâu” ở Nam Kỳ muốn tiến quân ra Bắc.

Đúng lúc ấy, nhân việc triều đình Nguyễn nhờ giải quyết vụ J. Dupuis, Thống đốc Nam Kỳ Dupré cử Thiếu tá (có tài liệu nói là đại uý) Francis Garnier (Gạc Nhe, Gạc Nhi hay An Nghiệp) đem quân từ Sài Gòn ra Hà Nội và giao cho Garnier tuỳ ý quyết định thiết lập chế độ bảo hộ hay thuộc địa ở Bắc Kỳ. Số quân từ Sài Gòn ra khoảng 200 tên (bao gồm cả lính thợ và lính nguỵ), 11 đại bác, hai tàu chiến, một tàu đổ bộ.

Ngày 5-11-1873, Garnier ra đến Hà Nội. Hắn không những không đả động gì đến “vụ Jean Dupuis” mà còn ngang ngược tuyên bố quyền “mở mang thông thương” của nước Pháp. Thấy rõ âm mưu của Garnier, Nguyễn Tri Phương, lúc này đang giữ chức tuyên sát đổng sức đại thần (chức quan phụ trách quân sự toàn bộ Bắc Kỳ), gấp rút lo chuẩn bị chiến đấu. Ông điều thêm quân các tỉnh về Hà Nội, ra lệnh cho quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc (lúc này đã về hàng ta) đóng phủ Hoài Đức (áp sát mạn tây bắc), quân của Trương Quang Đản đóng Bắc Ninh (áp sát mạn đông bắc), sẵn sàng tiếp ứng cho Hà Nội.

Chiều tối 19-11-1873, Garnier gửi tối hậu thư buộc Nguyễn Tri Phương giao thành. Mờ sáng hôm sau, khi Nguyễn Tri Phương chưa kịp trả lời thì Garnier đã ra lệnh tấn công.

Mặc dù đã chuẩn bị nhưng Nguyễn Tri Phương cũng không ngờ Garnier tấn công nhanh như vậy. Quân trong thành của ta có khoảng 6000 (có tài liệu nói 7000) nhưng trang bị kém, súng bắn không đi được xa và ít khi trúng mục tiêu, quân sỹ lại không được luyện tập nên khả năng tác chiến rất kém, lại lần đầu tiên nghe tiếng đại bác nổ thì hoảng sợ. Quân của Garnier trái lại, tuy ít hơn hẳn nhưng dũng cảm[2] và thiện chiến, có sự phối hợp giữa pháo binh và bộ binh. Ngoài đại bác từ ngoài sông yểm trợ, Garnier cho kéo một số khẩu vào sát mục tiêu, bắn vỡ cửa Đông. Ban đầu quân ta ở trên thành bắn xuống như mưa nhưng rất ít trúng. Những cây gỗ cắm chông lại được chính quân Pháp dùng làm thang trèo vào thành.

Khi quân địch lọt được vào trong thành thì quân ta vỡ trận nhanh chóng. Tất cả chỉ diễn ra chưa đầy một giờ đồng hồ thì thành bị hạ. Quân ta hy sinh 80 người, bị thương 300 trong khi quân giặc cả chết và bị thương chỉ vài người. Nguyễn Tri Phương bị thương và bị bắt. Ông tuyệt thực và qua đời ngày 20-12-1873 – đúng một tháng sau ngày Hà thành thất thủ[3].

Sau khi quân Pháp chiếm được Hà Nội, triều đình chẳng những không lo giữ các tỉnh thành lân cận, lại cử người đi xin chuộc thành. Điều đó đã tạo điều kiện cho Garnier đánh chiếm các tỉnh trung châu Bắc Kỳ khá dễ dàng. Lần lượt các tỉnh bị mất là: Hưng Yên 23-11; Phủ Lý 26-11; Hải Dương 3-12; Ninh Bình 5-12, Nam Định 12-12. Trong số trên chỉ có thành Hải Dương chiến đấu được lâu nhất – khoảng 2 giờ đồng hồ. Thành Ninh Bình có hơn 1000 quân nhưng viên tuần phủ đã nộp thành cho một toán quân Pháp chỉ có 9 người!

Cám cảnh trước cuộc tan tác quá nhanh chóng này, Đốc học Nam Định Phạm Văn Nghị thốt lên:

Thương ôi, bảy mươi ba năm[4] áo dày cơm nặng, xiết bao bể rộng non cao

Vừa một chớp nhoáng đất rộng trời kinh, mới biết kẻ hư người khá

Trong bốn tỉnh biết bao ông cả, há rằng không có chí can thành

Giữa ba mươi chưa hết ba tuần[5], sao bỗng nỡ rời tay then khoá

Hay là vốn không chí đánh, thét gào rằng gò rằng ụ, chỉ giơ súng sậy hò voi

Hay là vốn sẵn chước hoà, lẩn quẩn xin cối xin chày, quen dắt bò vàng đón cửa.

Nhưng tấn tuồng mất nước chưa khép lại ở đó. Đó mới là màn thứ ba sau màn mất ba tỉnh miền Đông (1862) và mất ba tỉnh miền Tây (1867)

III- CHUYỆN “HẬU” HÀ THÀNH THẤT THỦ: TRẬN CẦU GIẤY (I) – GARNIER BỊ GIẾT, QUÂN PHÁP RÚT KHỎI BẮC KỲ

Chiếm được Hà Nội và 6 tỉnh trung châu Bắc Kỳ, nhưng với quân số ít ỏi lại bị rải ra quá rộng, quân Pháp chẳng mấy chốc rơi ngay vào thế bất lợi.

Trong lúc Garnier đem quân đi đánh các tỉnh thì Hoàng Tá Viêm và Lưu Vĩnh Phúc ở Sơn Tây, Trương Quang Đản ở Bắc Ninh cũng cho quân áp sát Hà Nội. Ngày 19-12, phái đoàn thương thuyết của triều đình do Trần Đình Túc cầm đầu đến Hà Nội và ngày 20-11 bắt đầu đàm phán với Garnier thì cũng là lúc quân ta đã khép chặt vòng vây. Sáng 21-12, Lưu Vĩnh Phúc cho quân khêu chiến, khiến Garnier bỏ cả cuộc họp để đem quân đuổi đánh. Garnier hành quân đến Cầu Giấy, đi tắt xuống cánh đồng khô để nhanh đến phủ Hoài Đức, không ngờ ruộng hãy còn ướt, khẩu đại bác bị thụt bánh. Loay hoay mãi không kéo được lên, Garnier phải cho một toán quân ở lại tiếp tục kéo súng, còn mình dẫn một toán khác tiến lên. Đúng lúc ấy, quân mai phục của ta đổ ra đánh. Đội hình quân Pháp rối loạn. Quân Cờ Đen xông vào đánh sát lá cà. Garnier bị hàng chục vết đâm chém rồi bị cắt đầu. Một toán quân khác do viên sỹ quan Balny chỉ huy tiếp tục tiến về phủ Hoài cũng bị quân Cờ Đen phục kích. Balny cùng một số tên Pháp bị giết tại trận, 4 tên bị cắt đầu. Hoàng Kế Viêm cho đem 4 cái đầu này cùng với đầu của Garnier bêu khắp nơi khiến quân Pháp vô cùng khiếp sợ, mất hết tinh thần chiến đấu.

Tuy thế, triều đình không nhân cơ hội này mà phản công, lại bắt Hoàng Tá Viêm lui quân về Sơn Tây, bắt Lưu Vĩnh Phúc lên đóng quân tận Tuyên Quang, đồng thời đưa Nguyễn Văn Tường đi theo Philastre (Hoắc Đạo Sinh) ra Hà Nội thương thuyết.

Philastre là một tên thực dân cáo già. Thấy rõ tình hình bất lợi cho quân Pháp nên bất chấp thái độ hiếu chiến của J. Dupuis và Giám mục Puginier, ông ta bắt quân Pháp phải trả lại tất cả các thành vừa chiếm và trục xuất J. Dupuis về nước.  

Sau đó một hiệp ước đã được ký giữa Pháp và triều đình Nguyễn, gọi là Hoà ước Giáp tuất (năm Giáp tuất, 15-3-1874). Theo Hoà ước, triều đình chính thức nhượng toàn bộ Nam Kỳ cho Pháp; triều đình mở cửa Thị Nại (Quy Nhơn), Ninh Hải (Hải Phòng), Hà Nội và sông Hồng cho người Pháp vào buôn bán. Trong thế thua mà thực dân Pháp đạt được kết quả như trên là điều chúng không mong đợi gì hơn. Phía triều đình, tuy được trả lại Hà Nội và mấy tỉnh thành nhưng với việc chính thức nhượng toàn bộ Nam Kỳ, việc thừa nhận quyền thông thương của Pháp ở nhiều nơi, việc cho phép người Pháp có đất nhượng địa tại Hà Nội (có cả quân thường trú), một lần nữa triều đình lại nuôi thêm nhiều “con ngựa thành Troa”. Chủ quyền còn lại trên đất Bắc Kỳ và Trung Kỳ càng trở nên mong manh.

Và điều đến đã phải đến. Gần 10 năm sau, khi sự chuẩn bị đã chín mùi, ngày 25-4-1882, Henri Rivie tấn công Hà Nội, lần thứ hai Hà Nội lại thất thủ và sau đó các tỉnh miền Bắc lần lượt rơi vào tay giặc. Ngày 18-8-1883, quân Pháp tấn công cửa biển Thuận An, cổ họng của kinh thành Huế. Triều đình vội ký Điều ước Harmand (25-8-1883), chấp nhận quyền “bảo hộ” của Pháp tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ, tức là đầu hàng hoàn toàn. Chúng tôi sẽ trở lại nói về màn cuối của tấn tuồng này vào dịp khác.  

ĐTT

Xem bài liên quan của cùng một tác giả: 



.
Tài liệu tham khảo chính:

1. Bùi Kha: Nguyễn Trường Tộ và vấn đề canh tân, NXB Văn học, 2011

2. Dương Kinh Quốc: Việt Nam – Những sự kiện lịch sử (1858 – 1918), Nxb Giáo dục, tái bản 2003.

3. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên): Đại Cương lịch sử Việt Nam, tập 2. Nxb Giáo dục Việt Nam, tái bản 2010.

4. Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Phạm Hồng Tung, Phạm Xanh: Lịch sử Việt Nam, tập 3. Nxb Giáo dục Việt Nam, 2012.

5. Nguyễn Lộ Trạch: Thời vụ sách (Kế sách đối với thời cuộc, in trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời Trung đại, tập 2), NXB Giáo dục, 2001.

6. Nguyễn Trường Tộ: Tế cấp bát điều (Tám việc cần làm gấp, in trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời Trung đại, tập 2), NXB Giáo dục, 2001.

7. Nguyễn Văn Nam: Lịch sử Việt Nam, NXB Thời đại, 2010.

8. Phan Bội Châu: Việt Nam vong quốc sử (in trong Phan Bội Châu toàn tập, tập 2). Nxb Đà Nẵng, 2001.

9. Phạm Xuân Hằng – Phan Phương Thảo: Biên niên lịch sử Thăg Long – Hà Nội, NXB Hà Nội, 2010.

10. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục (tập 7). Nxb Giáo dục, 2007.

11. Trần Huy Liệu (Chủ biên): Lịch sử thành phố Hà Nội. Nxb Hà Nội, tái bản 2000.

12. Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, NXB Đà Nẵng, tái bản 2003.

13. Vũ Ngọc Phan: Những trận đánh Pháp (1858 – 1884) (in trong Vũ Ngọc Phan tác phẩm, tập 2), Nxb Hội Nhà văn, 2000.

14. Vương Chính Bình, Lầu Quân Tín, Tôn Nhân Tông (chủ biên): Bộ thông sử thế giới vạn năm, tập 2A. Trần Đăng Thao, Nguyễn Văn Ánh dịch. Nxb Văn hóa - thông tin, 2000.

15. Yosiharu Tsuboi: Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (1847 – 1885). Nguyễn Đình Đầu dịch, Nxb Tri thức, 2011.

16. Tinh tuyển văn học Việt Nam: Văn học thế kỷ XIX (Hoàng Hữu Yên tuyển chọn và giới thiệu), NXB Khoa học xã hội, 2004.




[1] Nước Phổ là một đế chế hùng mạnh ở châu Âu hồi thế kỷ XIX, về sau trở thành một bộ phận của nước Đức. Sau chiến Pháp – Phổ (1870 – 1871), Pháp phải cắt vùng Alsace và một phần ba vùng Lorrainecho Phổ và bồi thường chiến phí chiến phí 5 ngàn triệu franc.

[2] Ví dụ tinh thần của Garnier đêm trước cuộc tấn công Hà Nội. Dù nắm chắc phần thắng nhưng Garnier cũng sẵn sàng chết. Đêm 19-11-1873, Garnier viết thư cho người anh ở Pháp. Thư có đoạn: “Ngày mai, hồi tang tảng sáng, tôi sẽ cùng 180 người đánh thành Hà Nội, trong đó có đến 7000 quân. Nếu anh nhận được thư này mà không thấy tôi ký tên, không thấy tôi viết thêm câu nào ở dưới, tức là tôi đã chết hay bị thương nặng rồi”. Garnier đưa thư cho viên hạ sỹ ở lại trông pháo thuyền, dặn rằng nếu mai hắn chết thì niêm phong lại và gửi, còn nếu hắn sống, hắn sẽ viết thêm rồi mới gửi.

[3] Con ông – Phò mã Nguyễn Lâm, từ quê ra thăm cha, cũng nhập luôn vào cuộc chiến đấu giữ thành và hy sinh. Em ông là Nguyễn Duy hy sinh trong trận Chí Hoà năm 1862.

[4] Tính từ khi Gia Long chiếm lại Phú Xuân (1801) đến năm Tự Đức thứ 26 (1873).


[5] Chưa đầy một tháng Pháp lấy được Hà Nội, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định
-->đọc tiếp...

Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

NHÂN KỶ NIỆM 90 NĂM NGÀY SINH NHẠC SĨ VĂN CAO (15.11.1923 - 15.11.2013)



Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhạc sỹ thiên tài Văn Cao
(15-11-1923 – 15-11-2013)
Lời tác giả:  Tôi không phải là người đam mê nhạc và cũng không am hiểu nhạc, nhưng lại rất thích nghe nhạc Tiền chiến (Tân nhạc hay nhạc lãng Việt Nam trước 1945). Và trong số các nhạc sỹ Tiền chiến thì mê đắm nhất Văn Cao với bốn ca khúc bất hủ: Cung đàn xưa, Trương Chi, Thiên Thai, Bến xuân. Tôi cũng muốn được chia sẻ cuộc đời đầy bi hùng của ông. Bởi sau ánh hào quang ngắn ngủi của thời Tiền chiến và những năm kháng Pháp, người nhạc sỹ thiên tài này đã dính vào vụ Nhân văn giai phẩm đầy oan khiên, để rồi nghe nói, ông ngồi bất động suốt ba mươi năm.
Xin tưởng niệm Người bằng việc nghe lại khúc Cung đàn xưa.

Nhớ giai điệu u buồn Cung đàn xưa
Đào Tiến Thi
Nhạc sỹ Văn Cao lớn lên và bước vào nền Tân nhạc Việt Nam tại đất cảng Hải Phòng. Từ nhỏ sống với cha trong nhà máy bơm nước, kê tấm phản bên cạnh cái máy bơm làm bàn học, lớn lên đi làm ở nhà bưu điện rồi thất nghiệp, thế nhưng mảng nhạc tình của ông trước Cách mạng tháng Tám, viết trên cái nền bụi bặm của phố cảng và giữa cuộc sống nghèo khó, bấp bênh của mình, lại không gợn chút “bụi trần”. Cung đàn xưa, Thiên thai, Suối mơ, Bến xuân, Buồn tàn thu,... đều như những cõi mộng đẹp của một tâm hồn yêu đời, ham sống.
Riêng Cung đàn xưa có vẻ mông lung, khó hiểu. Chính Văn Cao cũng chỉ nói chung chung đây là “tiếng nói của kỷ niệm”, cái kỷ niệm “nó cứ đeo đẳng, không thể quên được”, về “những điều đã mất trong những những ngày tuổi trẻ của mình[1]”.
Lấy trong ý tứ mà suy[2]thì đây là kỷ niệm về một mối tình, một mối tình thoáng qua (hoặc cũng có thể là mối tình trong tưởng tượng) nhưng để lại dư vị đầy tiếc nuối.
Có một nàngbỗng nhiên xuất hiện và “xe kết” cùng chàng. Tác giả không tả cuộc tình mà chỉ tả cảm giác hiện tại và hồi tưởng lại cảm giác quá khứ. Mở đầu bằng hình ảnh “cây đàn bỏ quên”, tượng trưng mùa xuân tàn, cho cuộc tình duyên đã lỡ:
Hồn cầm phong hương hình dáng xuân tàn
Ngày dần buông trôi sầu vắng cung đàn
Từ người ra đi chờ vắng tin người
Từ người ra đi là hết mơ rồi.
Chữ phong hương các ca sỹ thường hát là phong sương và hầu hết các bản nhạc cũng in như vậy. Nhưng bản in trong hồi ký Phạm Duy nhớphong hương, và theo tôi như thế hợp lý và hay hơn. Phong sương là “gió sương”, không ăn nhập gì ở đây. Còn phong hương là “gói kín mùi hương” lại. Hồn cầm phong hương hình dáng xuân tàn có thể hiểu là: hương sắc mùa xuân đã được phong kín trong hồn đàn, nhìn vào cây đàn chỉ thấy hình dáng xuân tàn mà thôi, ngụ ý rằng người đẹp đã đi rồi, tất cả đều tàn tạ, Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan[3]. Từ nỗi ngậm ngùi ấy, tác giả chuyển nhanh sang hồi tưởng:
Cung thương là tiếng đàn
Cung nam là tiếng người
Ai oán khúc ca cầm châu rơi
Tình duyên lãng đãng nhớ thương dần pha phôi.
Mối tình cũ như tiếng đàn, tuy đã tắt nhưng còn ngân mãi trong lòng người. Nhưng tiếng đàn ấy không tươi vui nữa mà buồn xa vắng, buồn tái tê:
Cung đàn ngân buồn xa vắng trong tiếng thầm
Buồn tê tái trong tiếng ngân, buồn như lúc xuân sắp tàn
Ơi đàn xưa còn vương nhắc chi tới người
Lòng ta tắt bao thắm tươi u hoài duyên đưa.    
Và cái nhức nhối nhất là quá khứ không chịu trở thành kỷ niệm, nó cứ sống mãi cùng hiện tại, đặc biệt khi xuân về: 
Chiều năm xưa
 gót hài khai hoa/ mắt huyền lưu xuân/ dáng hồng thơm hương
Chiều năm nay
bóng người khơi thương/ tiếng đàn gieo oan/ giấc mộng chàng Trương
Về ba hình ảnh trong câu nhạc thứ nhất, nhạc sỹ Phạm Duy viết:
“Những cô hái mơ, cô bán hoa, cô hàng nước, cô lái đò, cô láng giềng xuất hiện trong các bản nhạc tình thuở đó làm sao mà có được những gót hài khai hoa, mắt huyền lưu xuân, dáng hồng thơm hương như trong bản Cung đàn xưa của Văn Cao? Chỉ cần có 12 chữ và chỉ để xưng tụng một người tình tưởng tượng mà thôi, Văn Cao đã đưa nhạc tình Tiền chiến lên tới một cao độ vượt khỏi những khuôn sáo cũ mèm[4]”.
Cái “khuôn sáo cũ mèm” mà Phạm Duy nói đến có lẽ là những cô hái mơ, cô bán hoa,… trên kia vẫn chưa thực sự thoát khỏi tính ước lệ của thơ ca cổ điển. Ca khúc tình yêu trong nhạc Tiền chiến phát triển theo quy luật tương tự Thơ mới. Nghĩa là ban đầu chỉ dám nói đến thứ tình yêu xa xăm, nặng về tưong tư sầu mộng:
Em chỉ là người em gái thôi
Người em sầu mộng của muôn đời
Tình anh như tuyết giăng đầu núi
Vằng vặc đêm thu nét tuyệt vời.
(Lưu Trọng Lư)
Và không phải ngẫu nhiên mà những bài hát đầu tiên của nền Tân nhạc (nhạc Tiền chiến), đã phổ nhạc một số bài thơ đầu của Thế Lữ, Nguyễn Bính. Nhưng Văn Cao xuất hiện đã đem đến cho nhạc tình Tiền chiến một hơi thở mới: cái đắm say nồng nàn. Giống như Xuân Diệu đã đem đến cái đắm say nồng nàn cho Thơ mới vậy.
Trở lại câu thơ nhạc nói trên của Văn Cao, có thể nói, người nhạc sỹ – thi sỹ trẻ Văn Cao đã đặt người yêu của mình ở vị trí tuyệt mỹ mà vẫn thực. Nó vừa ước lệ theo kiểu Làn thu thuỷ nét xuân sơn[5]của văn chương cổ điển lại vừa gợi tả một người con gái  có dáng, có da, có nét, có cả chất sexynữa. Người đẹp lướt qua như một làn gió, không hình không ảnh mà lại rõ mồn một bởi cảnh hoa nở tưng bừng theo gót chân nàng. Mắt nàng sâu thẳm chứa đầy một mùa xuân tình ái. Nàng đi đến đâu ngát thơm đến đấy. Nàng lãng đãng xa xôi từ chốn Bồng Lai đến với “gót hài khai hoa”, rồi tình tứ mặn màvới “mắt huyền lưu xuân” và thoắt cái, nồng nàn say đắm với “dáng hồng thơm hương”. Nhưng cái nồng nàn say đắm của Văn Cao cũng khác Xuân Diệu. Nếu Xuân Diệu “Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực” – thiên về tả thực, nhiều tính nhục cảm, thì Văn Cao thiên về gợi cảm, cho nên nồng nàn mà vẫn thanh tao, trần thế mà vẫn là người của chốn Đào Nguyên. Ta cảm nhận cái thơm tho của ái tình hơn là mùi vị của khứu giác.
Nàng đến nhanh mà đi cũng rất nhanh. Chiều năm xưa vừa mới rực rỡ thì chiều năm nay đã điêu tàn: Chiều năm nay/ bóng người khơi thương/ tiếng đàn gieo oan/ giấc mộng chàng Trương. Người đi rồi, chỉ còn lại bóng, khơi thêm vết thương lòng. Người đi rồi, tiếng đàn bây giờ là tiếng gieo oan (cất lên lời an oán). Người đi rồi, bây giờ ta chỉ yêu bằng mộng, giấc mộng của chàng Trương, giấc mộng xa vời, không bao giờ thành.
Theo hồi ký của Phạm Duy, thì chữ “gieo oan” được chép là “giao hoan”. “Tiếng đàn giao hoan” phải chăng là tiếng đàn gợi nhớ cuộc giao hoan? Nghĩa đen của từ này là “cùng vui với nhau” (Thêm nến giá nối hương bình / Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan- Truyện Kiều), ở đây có thể hiểu là tiếng đàn gợi nhớ cuộc gặp gỡ đẹp của đôi lứa. Chàng nhấm nháp khoảnh khắc yêu đương cũ,rõ ràng có thực mà bây giờ như trong mơ, như mối tình của chàng Trương Chi thuở trước. Và nếu ta hiểu là tiếng đàn “giao hoan” thì “giấc mộng chàng Trương” cũng bớt phần bi luỵ. Nó như một khát vọng về hạnh phúc không thể với tới, chứ không phải một tình yêu đơn phương.
Đoạn kết trở lại nỗi ngậm ngùi thấm thía khi đã biết chắc cuộc tình này một đi không trở lại.
Giờ còn mong chi người hát theo đàn
Giờ còn mong chi hợp cánh hoa tàn
Lời đàn năm xưa xe kết đôi lòng
Lời đàn năm nay đôi lứa xa vời
Khi hôn hoàng xuống dần
Trăng lên vàng mái lầu
Nghe thoáng tiếng kinh cầu xa xa
Ngàn lau thấp thoáng bóng kinh kỳ sầu bao la.
Bài này chưa phải là đỉnh cao nhất trong nhạc tình của Văn Cao trước Cách mạng. Khát vọng tình yêu và hạnh phúc còn được Văn Cao tiếp tục phát triển ở hai tuyệt tác Trương ChiThiên Thai. Tuy nhiên, nếu so sánh với nỗi “thất tình” trong Trương ChiThiên Thai thì trong Cung đàn xưa, ít bi luỵ hơn. Cung đàn xưa chủ yếu vẫn là dư vị ngọt ngào của mối tình đầu. Duyên đã lỡ nhưng tình thì còn mãi. Hạnh phúc tuy ngắn ngủi nhưng thực sự đã chạm đến chứ không phải là điều huyễn hoặc.
Có nhiều ca sỹ hát bài này, mỗi người mỗi vẻ, nhưng Ánh Tuyết thật xứng đáng là người giải nhất chi nhường cho ai[6]. Với giọng ca Cao như thông vút, buồn như liễu[7], với ánh mắt u buồn, sâu thẳm, Ánh Tuyết nồng nàn mà không suồng sã, buồn mà không bi luỵ, người nghe cảm nhận một tình yêu vừa lãng mạn cổ điển lại vừa đắm say hiện đại.
(Bài đã đăng TC Thế giới trong ta)



[1] VDC Suối mơ – Hãng phim Trẻ, 1999
[2] Nguyễn Du – Truyện Kiều
[3] Nguyễn Du – Truyện Kiều.
[4] Phạm Duy – Tân nhạc Việt Nam buổi ban đầu, NXB Trẻ, 2006.
[5] Nguyễn Du Truyện Kiều.
[6] Nguyễn Du Truyện Kiều
[7] Thơ Thế Lữ.
-->đọc tiếp...

Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

Đào Tiến Thi: PHẢN BIỆN BÀI VIẾT CỦA GS. HOÀNG CHÍ BẢO


Đâu là “sự thật”, “công lý” và “trách nhiệm” qua bài viết của Giáo sư Hoàng Chí Bảo?

Đào Tiến Thi

Giáo sư Hoàng Chí Bảo (ảnh trên) vừa có bài Trọng sự thật và công lý để hành động có trách nhiệm nhằm bác bỏ những ý kiến (chủ yếu là của ông Lê Hiếu Đằng và ông Hồ Ngọc Nhuận) về việc thành lập Đảng Dân chủ xã hội ở Việt Nam.

Toàn bài của Giáo sư Hoàng, từ tiêu đề, đều toát lên tiếng nói của kẻ có quyền phán quyết và dạy dỗ. Ví dụ ngay đoạn đầu đã đóng đinh bằng hàng loạt nhận định mang tính tiên đề, không có chứng minh, phân tích, biện bác gì cả: “Ý Đảng – Lòng dân – Phép nước đã thống nhất và hòa quyện làm một, tạo thành sức mạnh thúc đẩy đổi mới, làm nên sức sống của đổi mới, thành tựu phát triển đất nước như hiện nay. Đổi mới là sự gặp gỡ tất yếu và tự nhiên giữa những hối thúc của đời sống thực tiễn với những sáng kiến, sáng tạo của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân từ cơ sở, cùng với quyết sách đúng đắn, kịp thời của Đảng”.

Giáo sư dựa vào đâu để nhận định: “Ý Đảng – Lòng dân – Phép nước đã thống nhất và hòa quyện làm một”? Và nếu thế không có gì phải bàn, phải làm nữa. Chẳng lẽ Giáo sư không hề biết chỉ trong mấy năm qua hàng loạt tập đoàn kinh tế nhà nước đổ vỡ, hàng nghìn dân oan bị tước đoạt ruộng đất, phải đi khiếu kiện năm này qua năm khác mà vẫn không có kết quả gì; hàng chục nghìn người phải ra nước ngoài làm thuê; hàng ngàn phụ nữ phải lấy chồng ngoại, thực chất là những cuộc bán mình; hàng trăm người yêu nước và đấu tranh cho chủ quyền dân tộc và lẽ công bằng bị kết tội tuỳ tiện hoặc thường xuyên bị sách nhiễu, bất chấp luật pháp. Cả xã hội gần bất lực trước nạn tham nhũng, lạm quyền và các loại tội phạm. Biển đảo thì ngày càng bị nhà cầm quyền Trung Cộng ngang nhiên xâm lấn, ngư dân luôn bị khủng bố mà không có một chiến lược, một quyết sách gì để ngăn chặn và hy vọng. Và còn bao nhiêu nan giải khác về xã hội, giáo dục, y tế,… Là một nhà khoa học, nhất là khoa học xây dựng Đảng, lẽ ra Giáo sư Hoàng phải cảnh báo cho Đảng để có sự điều chỉnh về đường lối chính sách; còn đối với những tiếng nói đối lập, phải đối thoại cởi mở trên cơ sở chân lý và đạo lý; nhưng qua bài trên, tôi thấy Giáo sư chỉ ra sức tô hồng hiện thực và kết tội những người khác ý kiến, như thế còn đâu là “sự thật”, còn đâu là “công lý” với “trách nhiệm” như tiêu đề của bài?

Giáo sư Hoàng khen ngợi thành tựu đổi mới của Đảng. Đồng ý. Nhưng là một bài tranh luận, Giáo sư phải bác bỏ từng luận điểm của đối phương. Khi ông Lê Hiếu Đằng nêu những cái phi lý, bất cập, tội lỗi của chính thể hiện nay, lẽ ra Giáo sư phải bác bỏ từng điểm một mới phải, chứ sao lại lấy cái hay để thay thế cho cái dở? Làm cho “Ông nói gà, bà nói vịt”, chẳng ăn nhập gì cả. Công là công, tội là tội, làm sao lấy công thay cho tội được?

Bây giờ tôi xin tập trung phân tích hai ý chính trong của Giáo sư Hoàng Chí Bảo:

- Ca ngợi công lao của Đảng, chủ yếu là giai đoạn từ phát động “đổi mới” đến nay.

- Coi sự độc quyền lãnh đạo của Đảng là hợp lý, hợp tình.

Về ý thứ nhất, khi Giáo sư Hoàng ca ngợi công lao của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước (từ cuối 1986, khi chấp nhận kinh tế thị trường, kinh tế tư bản, tư nhân) không phải là sai nhưng coi đấy là tất cả do “thiên tài Đảng ta” thì thật không khách quan, không vô tư. Cuộc “đổi mới” này, nói cho công bằng, là cuộc gỡ bớt (bớt thôi chứ không hết) những cái ách phi lý đè nặng bấy nhiêu năm. So với trước đó (kinh tế tập thể, tập trung, cấm tiệt kinh tế tư nhân, tư bản) thì đúng là mới. So với Bắc Triều Tiên và Cu Ba, hai quốc gia kiên định giữ nguyên mô hình CNXH, thì bước đi của Đảng Cộng sản Việt Nam là rất mới, rất táo bạo. Nhưng so với Đảng Cộng sản Trung Quốc (tiến hành cải cách mở cửa từ năm 1978), thì ta cũng bình thường thôi (chậm hơn Trung Quốc gần một thập kỷ và tốc độ cũng chậm hơn nhiều). Còn so với sự đòi hỏi của thực tiễn, so với quy luật chung của cuộc sống, so với con đường của hầu hết các quốc gia trên thế giới đã đi thì sự “đổi mới” của ta chẳng có gì mới, thậm chí là quá chậm. Sự đổi mới ấy chẳng qua là quay về với cái cũ (ở Việt Nam thời Pháp thuộc đã có kinh tế tư bản không đến nỗi nhỏ). Kinh tế thị trường (tư bản) đã ra đời ở Âu – Mỹ, Nhật Bản hàng trăm năm trước. Và thị trường của họ ngày nay đã tiến tới sự hoàn thiện dưới sự điều hành, giám sát của nhà nước pháp quyền, của xã hội dân sự (trong đó đặc biệt là vai trò của nghiệp đoàn, của tự do ngôn luận, tự do báo chí), chứ không phải thị trường hoang dã, méo mó như Việt Nam hiện nay.

Tất nhiên là khi gỡ bớt những cái ách trên thì nhân dân phấn khởi, sức lao động và sức sáng tạo bao nhiêu năm bị kiềm toả bỗng nhiên được giải phóng. Lại thêm tư bản nước ngoài vào đầu tư, tất cả đã khiến kinh tế Việt Nam khởi sắc hẳn lên. Tức là kinh tế bước đầu được vận hành theo quy luật. Cứ nhìn vào hình ảnh người nông dân trên đồng ruộng khi vừa mới có chính sách chia ruộng những năm cuối thập niên tám mươi, đầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước so với giai đoạn hợp tác xã trước đó thì đủ biết. Thời hợp tác xã, người ta đệm cho cày nông choèn, rồi cày một đường lại bỏ “lỏi” nửa đường là chuyện thường. Việc bừa cũng tương tự như vậy. Nhưng đến lúc chia ruộng, bà con làm ruộng nhuyễn như nồi cháo nấu kĩ. Rồi bao nhiêu phân gio được chiu chắt, chăm bẵm,… do đó lúa tốt hẳn lên chứ không “chó chạy hở đuôi” như thời hợp tác xã. Trời còn mờ tối, bà con đã lục tục ra đồng, tối nhọ mặt vẫn chưa chịu về, khác hẳn thời hợp tác xã, mặt trời còn con sào mới gọi nhau xuống đồng, lại còn giải lao giữa giờ, trà thuốc chán chê, cho đến khi mặt trời sắp lặn mới xuống làm tượng trưng một chút nữa rồi về.

Viết đến đây tôi muốn muốn minh hoạ thêm bằng một ý của Mạc Ngôn (nhà văn Trung Quốc, giải Nobel 2012). Năm 1993, Mạc Ngôn qua thăm một thành phố vùng biên giới Nga – Trung. Ông hết sức ngạc nhiên khi thấy cùng thảo nguyên ấy, bên Nga đất đai hết sức phì nhiêu và rộng rãi so với Trung Quốc, nhưng dân Nga lại nghèo khổ hơn hẳn dân Trung Quốc (lúc ấy Trung Quốc đã cải cách được 15 năm, còn Nga vừa mới tan rã đế chế Xô Viết). Mạc Ngôn nhận định: “Người dân dưới bất kỳ chế độ xã hội nào đều là một quần thể cần lao, dũng cảm, giàu sức sáng tạo nhất. Chỉ cần nới lỏng một chút bàn tay xiết trên cổ họ, để họ có thể hít thở được, chỉ cần nới lỏng một chút cái sợi dây xiềng xích giữ tay và chân họ, để họ có thể lao động được, họ có thể sáng tạo ra cả một nền văn hoá rực rỡ và những của cải lớn lao[1].

Dẫu sao thì dân ta hiện nay cũng “vênh mặt” được với Bắc Triều Tiên và Cu Ba. Nhưng so với Nhật Bản, Hàn Quốc, những nước cho đến tận đầu thế kỷ XIX chỉ tương đương mình như, thì mình thật đau xót; còn so với những nước lân bang như Thái Lan, Singapore, cho đến tận đầu thế kỷ XIX, vẫn còn là “đàn em” của ta, thì thật hổ thẹn.

Và đúng là cuộc đổi mới đã giúp Đảng Cộng sản thoát hiểm như nhận định của Giáo sư Hoàng Chí Bảo. Nhưng cuộc thoát hiểm đó mang tính chất tình huống, tạm thời. Bởi vì chỉ đổi mới kinh tế mà không đổi mới chính trị. Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, kinh tế là cơ sở hạ tầng, quyết định kiến trúc thượng tầng, tức hình thái nhà nước;  và kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng. Lực lượng sản xuất phát triển đến độ như bây giờ thực sự đã mâu thuẫn gay gắt với kiến trúc thượng tầng. Kinh tế thị trường do không đi đôi với nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự đã dẫn đến những nhóm lợi ích, những sự cạnh tranh mang tính maphia,… Và đặc biệt là tình trạng tham nhũng vô phương cứu chữa. Càng duy trì tình trạng này sẽ càng tiếp tục khủng hoảng, cả kinh tế và chính trị. Chính nó đe doạ sự tồn vong của Đảng, chứ không phải “các thế lực thù địch”.

Về ý thứ hai, Giáo sư Hoàng nêu: “Dân ủy thác cho Đảng trọng trách. Sứ mệnh, địa vị và trọng trách của Đảng là sự lựa chọn của dân, là sự tin cậy mà dân dành cho Đảng…”. Thế nhưng giáo sư lại không biện luận, không chứng minh được điều này. Thử hỏi, dân uỷ thác cho Đảng bao giờ, dưới hình thức nào? Đã gọi là uỷ thác thì phải qua một hình thức “khế ước” như qua hiến pháp, qua các bộ luật, qua việc bầu cử tự do. Hiến pháp hiện hành có ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội” (Điều 4) nhưng nhân dân chưa bao giờ được phúc quyết điều này. Tất cả các chức danh lãnh đạo của Đảng hoàn toàn do Đảng bầu, Đảng cử chứ dân không có quyền gì. Giáo sư lý giải thế nào hình ảnh một xã hội được gọi là dân chủ nhưng người đại diện cho mình, thực thi những quyền lợi của mình, quyết định số phận của mình, lại không phải do mình bầu lên?

Giáo sư viết tiếp: “Phản ứng và thái độ của cá nhân là quyền của mỗi người, nhưng quyền ấy phải thuận theo đạo lý và luật pháp”. Không hiểu đó là đạo lý gì và luật pháp nào? Ở dưới, Giáo sư có giải thích nhưng cũng chẳng sáng tỏ gì hơn: “Đó là lẽ phảiđạo lý ở đời và làm người mà Bác Hồ gọi là Thân dânChính tâm. Với những đảng viên của Đảng Cộng sản, đòi hỏi này càng cần phải tôn trọng nghiêm ngặt hơn bởi sự dẫn dắt của lý trí tỉnh táo, sáng suốtthái độ chính trị nghiêm túc, biết tự mình trung thành với lý tưởng và nguyên tắc, cùng với giữ trọn đạo làm người cách mạng” (nhấn mạnh của ĐTT). Thật quá nhiều ngôn từ to tát nhưng lại không nói được điều gì. Thử hỏi ông Lê Hiếu Đằng, ông Hồ Ngọc Nhuận,… vi phạm đạo lýlẽ phải ở chỗ nào? Không thân dân, không chính tâm, không tỉnh táo,… ở chỗ nào?

Lại nữa, Giáo sư viết: “Khi đã giác ngộ chân lý thì phải phục tùng chân lý”. Không hiểu Giáo sư nói chân lý nào đây? Sống dưới chế độ Sài Gòn, ông Lê Hiếu Đằng thấy không có tự do, độc lập; Đảng nêu cao tự do, độc lập, ông thấy đấy là chân lý nên đi theo. Nay ông Lê Hiếu Đằng thấy Đảng không coi trọng tự do, độc lập nữa, ông muốn thành lập một đảng khác để thực thi tự do, độc lập, thì đó cũng là chân lý. Chân lý là quá trình nhận thức, quá trình tìm kiếm không ngừng chứ đâu phải là cái gì bất biến.

Phần cuối, Giáo sư Hoàng vô tình hay hữu ý đã đánh tráo khái niệm khi ông bàn sang vấn đề đa đảng ở các nước tư bản (dân chủ): “Có một thực tế lịch sử hiển nhiên cũng cần được làm rõ, trong các nước tư bản chủ nghĩa, dù tồn tại đa đảng và các đảng đối lập, nhưng vẫn định hình một đảng cầm quyền. Chính trường ở đó thường xuyên diễn ra các cuộc tranh giành quyền lực giữa các đảng chính trị tư sản. Họ chỉ đa nguyên, đa đảng trên hình thức, còn trên thực tế đều tỏ rõ sự nhất nguyên, bởi đảng chính trị tư sản nào cũng không bao giờ xa rời mục đích bảo vệ cho quyền thống trị và sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản”.

Đúng là trong chính thể đa đảng của các nước dân chủ luôn diễn ra cuộc tranh giành và tất nhiên rốt cuộc có một đảng thắng và lên cầm quyền. Nhưng sự cầm quyền ấy khác hẳn sự độc quyền của đảng cộng sản ở các nước cộng sản. Trước hết sự cầm quyền của họ là do nhân dân quyết định (phải thắng phiếu trong bầu cử); thứ hai, khi cầm quyền, họ buộc phải thực thi pháp luật và thực thi những điều đã cam kết; nếu không làm được, sẽ bị nhân dân phế truất bằng nhiều cách khác nhau.

Chưa kể, đảng cầm quyền luôn đối mặt với đảng đối lập, với xã hội dân sự, với tự do ngôn luận và báo chí, do đó luôn luôn bị chỉ trích nếu có khuyết điểm. Vì vậy đảng cầm quyền khó có cơ hội chỉ vơ vén cho quyền lợi ích kỷ của mình. Tuy vậy, một đảng cầm quyền lâu ngày vẫn thường dẫn đến tha hoá. Do đó như ta thấy ở Mỹ và một số nước, mỗi đảng (cũng như tổng thống) giỏi lắm chỉ cầm quyền được hai nhiệm kỳ. Nhiệm kỳ hai thường là đuối sức, nhiều tổng thống buộc phải từ chức giữa nhiệm kỳ. Nền chính trị dân chủ của họ do đó luôn luôn được “thay máu”, có lẽ vì thế mà chế độ tư bản “giãy” mãi mà không “chết”!

Giáo sư Hoàng cũng lặp lại một điều mà các đồng nghiệp của ông ai cũng bám lấy: “Không phải cứ đa nguyên đa đảng là có thể xây dựng được xã hội dân chủ”. Đúng. Không phải cứ đa nguyên đa đảng là có thể xây dựng được xã hội dân chủ. Cũng như không phải cứ ăn chất đạm thì khoẻ mạnh, cứ dùng thuốc thì chữa được bệnh. Nhưng muốn khoẻ mạnh thì không thể từ chối ăn chất đạm, muốn chữa được bệnh thì không thể không dùng thuốc. Cho nên cái mệnh đề trên của Giáo sư Hoàng và một loạt giáo sư Mác – Lê-nin khác chả có gì đứng vững. Nhưng điều này thì có: Không phải cứ đa nguyên đa đảng là có thể xây dựng được xã hội dân chủ nhưng muốn xây dựng xã hội dân chủ, không thể không đa nguyên, đa đảng. Điều này thực tế đã chứng minh: chưa hề có nước nào độc đảng mà có dân chủ, nhưng nhiều nước đa nguyên đa đảng thì đã có dân chủ, ít nhất cũng dân chủ hơn các nước độc đảng. Tại sao ta không đi con đường mà thế giới đã đi, cứ nhất nhất đi con đường riêng chưa ai đi, và con đường riêng ấy luôn luôn phải loay hoay, chật vật? Và thỉnh thoảng, ở tình huống bế tắc quá thì lại làm cú “phá rào” để thoát hiểm?

Cuối cùng, Giáo sư Hoàng lại quay về với Điều 4 Hiến pháp để bảo vệ sự độc quyền của Đảng: “Điều 4 trong Hiến pháp đã khẳng định về vai trò lãnh đạo cầm quyền của Đảng. Đó là ý chí của dân, nguyện vọng của dân, đạt được sự đồng thuận rất lớn của xã hội. Đảng ta trong nhận thức và đánh giá của dân, có đầy đủ tính chính đáng pháp lý và sự xứng đáng về phẩm giá và uy tín của một Đảng lãnh đạo và cầm quyền”.

Sao Giáo sư lại dùng Điều 4 Hiến pháp thay cho lập luận? Lẽ ra Giáo sư phải làm ngược lại: dùng lập luận để biện giải, chứng minh cho sự đúng đắn của Điều 4. Dựa vào đâu mà Giáo sư bảo Điều 4 là “ý chí của dân”? Đã bao giờ Hiến pháp được phúc quyết chưa? Đã bao giờ Điều 4 được đem ra trưng cầu dân ý chưa?

Mấy năm trước, tôi thấy một số chuyên gia Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương lo lắng không biết nên “diễn giải” như thế nào về Đảng bây giờ. Trong tình hình hiện nay, vấn đề có lẽ càng cấp bách hơn. Người như Giáo sư Hoàng, lẽ ra có nhiệm vụ biện giải để làm sao sáng ngời tính chính danh của Đảng (chứ không phải càng nói càng hỏng). Hoặc là phải tham mưu cho Đảng, làm sao có đủ chính danh. Và nhất là làm sao “thay máu” để Đảng lành mạnh trở lại, chứ không phải nói lấy được những điều trên.

Một người “gác cổng” lâu năm cho Đảng về mặt lý luận lại có học hàm giáo sư, tôi thật buồn khi thấy bài của Giáo sư Hoàng chỉ ở tầm “dư luận viên” mà thôi. Thực tình tôi nghĩ không phải trình độ Giáo sư Hoàng Chí Bảo như vậy. Vì tôi đã từng nghe Giáo sư Hoàng giảng về Nghị quyết Trung ương IV khá hay. Lần giảng về NQ Trung ương IV đó, cách đây chưa lâu, Giáo sư đã phân tích nguyên nhân thoái hoá chính là từ trong Đảng (do tham nhũng, lộng quyền, dối trá,… mà ra chứ không phải do “thế lực thù địch” dùng thủ đoạn “diễn biến hoà bình” nào cả). Vậy bây giờ có lẽ do Giáo sư không nói thật, không căn cứ vào sự thật, cho nên gần như chẳng biện bác được gì ngoài những khẩu hiệu khô cứng. Thiết nghĩ bảo vệ Đảng như thế thật hoá ra hại Đảng. Như cụ Nguyễn Du đã viết: Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau.

Đ.T.T.



[1] Tạp văn Mạc Ngôn, Nhà xuất bản Văn học, 2005.
-->đọc tiếp...

Thứ Ba, 20 tháng 8, 2013

TRAO ĐỔI VỚI GS. VŨ MINH GIANG, NGUYÊN PGĐ ĐẠI HỌC QUỐC GIA HN - BÀI 3

 
Trao đổi với Giáo sư Vũ Minh Giang: 
Cơ sở pháp lý cho phép việc thành lập
các chính đảng mới ở Việt Nam

Đào Tiến Thi

Trong trả lời BBC mới đây, GS. Vũ Minh Giang nói: “Hiện chưa thấy có cơ sở pháp lý nào để cho phép việc thành lập các chính đảng mới ở Việt Nam”.

GS. Vũ Minh Giang dùng chữ “cho phép” như trên khiến nhiều người cảm thấy phản cảm, vì liên hệ ngay đến cái cơ chế “xin cho” tồn tại lâu nay trong chế độ XHCN ở Việt Nam. Chính vì thế GS. Ngô Đức Thọ và nhà văn Phạm Đình Trọng đã phản ứng tức thời.

Lẽ dĩ nhiên Đảng CSVN chẳng bao giờ muốn một lực lượng khác bên cạnh mình. Nhưng muốn là một chuyện, còn điều muốn đó có hợp thức hay không, tốt xấu thế nào lại là chuyện khác. Bởi vì Hiến pháp hiện hành cũng như Điều lệ Đảng hiện hành đều ghi nguyên tắc của Đảng: “hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. 

Cho nên muốn kết tội tổ chức nào đó “bất hợp pháp” thì, về mặt chính danh (chỉ nói mặt chính danh thôi, chứ nếu bất chấp thì không có gì để bàn), cũng không thể qua mặt Hiến pháp và pháp luật. 

Dưới đây tôi xin đưa ra một số cơ sở pháp lý.

1. Hiến pháp hiện hành nói Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, chứ không hề nói là đảng “duy nhất”, tức là không cấm một đảng thứ hai, thứ ba,...

2. Điều 69 Hiến pháp hiện hành ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật” (Đảng cũng là một kiểu “hội”). Quyền này đã nằm trên giấy đã gần 70 năm, chẳng lẽ còn bắt nó tiếp tục nằm trên giấy? Nếu còn muốn chung sống với nhân loại tiến bộ thì dứt khoát phải thực thi các quyền này.

3. Cũng từng đã có tiền lệ[1]: trước đây trong Quốc hội và Chính phủ đã từng có mặt đại biểu của Việt Nam Quốc dân đảng, Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam. Về sau Quốc dân Đảng bị đánh đuổi, nhưng hai đảng còn lại vẫn tồn tại bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến năm 1988. Xã hội ngày càng cần phải dân chủ hơn thì không lý do gì lại từ chối đa đảng.

4. Ông TBT Nguyễn Phú Trọng khi còn làm Chủ tịch Quốc hội, trong chuyến thăm Ấn Độ (2-2010) đã nói: “Thực tiễn các bạn thấy đất nước chúng tôi, chính trị, xã hội ổn định, nhân dân được làm chủ thực tế, quốc hội hoạt động ngày càng dân chủ (...), đất nước phát triển ngày càng đi lên. Thực tế trong hoàn cảnh cụ thể đất nước chúng tôi, thực hiện một đảng vẫn là hiệu quả nhất”. Vậy có nghĩa là: khi đất nước không còn ổn định, không còn phát triển, cơ chế một đảng không hiệu quả, trong khi ấy, đa đảng sẽ tốt hơn, thì Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không từ chối đa đảng. 

Phát biểu của GS. Vũ Minh Giang thực ra mang tính “nước đôi”. Tuy mang ý chí chính thống nhưng ông cũng không dám bác bỏ thực tế hiển nhiên. Vì vậy, ý này theo tôi là được:

Trong lịch sử Việt Nam kể từ khi sau cuộc Cách mạng tháng 8/1945, trong hệ thống chính trị từng có tồn tại một cơ cấu có những đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, lúc đó gọi là Đảng Lao động Việt Nam, thí dụ như Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội, v.v...

Cho nên tôi cho rằng việc ở đâu đó có những người hoặc có những nhóm người xuất phát từ những quan niệm, những mong muốn mà họ có những đề xuất này khác, tôi cho cũng là hiện tượng bình thường thôi”.

Ta biết rằng Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam tuyên bố “tự giải tán” (năm 1988) chứ không phải bị cấm hoạt động. Hai đảng trên, dù quyền lực rất hạn chế, đã đóng góp rất lớn vào công cuộc kháng chiến kiến quốc suốt gần nửa thế kỷ. Ít nhất họ cũng làm “bình phong” cho Đảng Cộng sản để đoàn kết các thành phần xã hội, huy động sức mạnh toàn dân tộc và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Đảng Dân chủ Việt Nam có nhiều nhân vật trí thức sáng giá: Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hòe, Nghiêm Xuân Yêm,... Đảng Xã hội Việt Nam cũng vậy: Hoàng Minh Giám, Phan Anh, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Xiển,... Nhiều lãnh tụ hai đảng trên được Nhà nước trao Huân chương Sao vàng.

Nhưng đến ý sau, Giáo sư nói: “Lý luận của một nhóm nào đó nói đa thành phần kinh tế ở hạ tầng cơ sở thì cũng có thể mở đường cho nhu cầu đa nguyên, đa đảng xuất hiện tương ứng ở thượng tầng kiến trúc có thể chỉ là suy luận lôgic hình thức” thì Giáo sư lại rất dại dột. “Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng”, “kiến trúc thượng tầng phù hợp với “cơ sở hạ tầng”, đấy là nguyên lý “nằm lòng” của những người theo chủ thuyết Mác-Lê nin. Chẳng lẽ Giáo sư lại hồn nhiên phủ định?

Nói thêm

GS. Vũ Minh Giang nói: “Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo Việt Nam hiện nay đang rất cần kiểm soát quyền lực”. Đó đúng là một thực tế. Nhưng đó chỉ là ý chí của Đảng, chính xác là bộ phận đang nắm quyền (và tất nhiên nắm lợi) của Đảng, chứ không phải nhu cầu của xã hội nói chung, của dân tộc nói chung, kể cả của nhiều đảng viên. Ngược lại, xã hội hiện nay có nhu cầu bức thiết kiểm soát quyền lực của Đảng (hay của bất cứ ai cầm quyền sau này). Chính quyền lực bao trùm của Đảng đã tạo nên đủ loại vấn nạn xã hội, kể cả vấn nạn cho chính Đảng, làm cho Đảng ngày càng thoái hoá. 

Xét quy luật phổ biến, tất cả các nhà nước dân chủ đều cần sự kiểm soát quyền lực. Nhà nước nào càng bị/được kiểm soát quyền lực thì càng tồn tại lâu dài. Trái lại, tất cả các nhà nước độc tài đều sụp đổ rất nhanh, như đã từng diễn ra với chế độ Tần Thủy Hoàng, Thành Cát Tư Hãn, Hitler, Polpot,... 

Mặt khác, chính Hiến pháp hiện hành quy định: “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”. Tại Hội nghị Trung ương V, ông TBT Nguyễn Phú Trọng còn nhắc lại điều đó. Quyền lực thuộc về nhân dân nghĩa là nhân dân có quyền lập hiến, có quyền chọn chế độ chính trị, chọn đảng cầm quyền, chọn các cá nhân vào các ghế quyền lực,... (Tất cả thông qua phiếu bầu). Điều 4 hiện nay cũng có thể có lý do tồn tại nếu được nhân dân bỏ phiếu. 

Tuy nhiên khi nói tới “nhu cầu kiểm soát quyền lực thì đã nói sang “cơ sở xã hội”, chứ không phải “cơ sở pháp lý” nữa.

Nếu sau đây GS. Vũ Minh Giang tiếp tục nói về “cơ sở xã hội”, tức là những nhu cầu hiện nay (đã có hay chưa) của việc đa đảng, thì sẽ rất hay. Bởi vì đấy mới là vấn đề. Hiến pháp, pháp luật hay mọi luật lệ nói chung đều do con người làm ra. Giả sử bây giờ việc đa đảng chưa có “cơ sở pháp lý” nhưng cuộc sống đòi hỏi thì hiến pháp, pháp luật cũng phải thay đổi để mở đường cho cuộc sống đi lên. 

Đ.T.T.

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

[1] Chữ Tiền lệ theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, in lần thứ chín, 2003) là: “Việc xảy ra từ trước, tạo thành cái lệ cho những việc về sau”. Có những việc đã thành tiền lệ, phải theo. Tạo thành một tiền lệ cho sau này”. Như vậy cũng là một kiểu “cơ sở pháp lý”. Nhất là cái tiền lệ trên đã tồn tại khá lâu dài, rất đàng hoàng và hai đảng trên được Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tuyên dương công trạng.

Nguồn: BVN


-->đọc tiếp...