Blogger Widgets
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Đức Toàn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Đức Toàn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

Phát hiện thủ bút Trần Trọng Kim: THƯ GỬI HOÀNG XUÂN HÃN NĂM 1947

Thủ bút Trần Trọng Kim
Thư gửi Hoàng Xuân Hãn năm 1947

Nguyễn Đức Toàn
Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Trần Trọng Kim (1887-1953) là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu văn học, sử học có tiếng trong giới trí thức nước ta thời cận đại. Ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị, như Nho giáo, Việt Nam sử lược, có đóng góp cho tri thức và nghiên cứu lịch sử văn hóa nước nhà. Trong khi tiếp xúc với văn bản Namquốc địa dư chí, tôi phát hiện ra bức thư này nằm giữa tờ bìa ngoài gấp đôi đã bị phết hồ dán kín lại, do thời gian lâu ngày lớp hồ khô đi, trong lúc kiểm tra văn bản bức thư vô tình rơi ra. Được biết một số sách Hán Nôm có nguồn gốc từ thư viện riêng của gia đình GS. Hoàng Xuân Hãn. Bức thư này có lẽ đã đến tay cụ Hoàng và được cụ Hoàng dấu kín vào tờ bìa của cuốn Nam quốc địa dư chí, mà sau này được hiến tặng lại cho thư viện. Đối chiếu với tập hồi ký Một cơn gió bụi của cụ Trần đã được xuất bản trong những năm 60, chúng tôi nhận định đây chính xác là bút tích và giọng văn của cụ Lệ thần - Trần Trọng Kim, vì những nhân vật trong thư nhắc đến đều là những gương mặt trí thức chính trị đương thời với cụ. Ngày tháng, sự kiện, giọng văn và tư tưởng trong bức thư hoàn toàn phù hợp với ngày tháng, sự kiện, giọng văn, tư tưởng của cụ Trần trong tập hồi ký đã nêu trên.

Chúng tôi xin được giới thiệu nội dung bức thư như một phần di cảo bút tích của một nhà giáo, một học giả uyên bác và đức hạnh, một nhà nghiên cứu Nho giáo tân học cuối cùng, sau hơn nửa thế kỷ nằm im lìm trong một tập sách cũ. Thấy rõ thêm mối quan hệ giữa hai gương mặt trí thức lớn của nước ta trong lịch sử cận đại. Bên cạnh đó, đặt ra vấn đề thận trọng và nghiêm túc trong công tác bảo quản các tư liệu Hán Nôm của chúng ta hiện nay.

Bức thư gồm 2 tờ viết 2 mặt. 

Nội dung như sau :
Sài Gòn, ngày 8 tháng 5, năm 19471
Ông Hãn2
Hôm ông Phan văn Giáo3 đưa cái thư của ông vào cho tôi, tôi không gặp ông ấy. Tôi xem thư của ông, nhất là đoạn viết bằng chữ nôm, tôi biết rõ sự tình và tôi đã phiên dịch ra quốc-ngữ, gửi sang để Ngài4xem.
            Gần đây tôi lại được thư khác của ông, do ông Giáo gửi lại cho tôi, đại khái cũng như thư trước. Cái tình thế nước ta bây giờ, tôi cũng hiểu đại khái như ông, cho nên trước khi tôi về, tôi đã dặn Ngài : Trừ khi có bằng-chứng chắc-chắn, thì ngài chớ nghe ai mà về. Sau khi tôi đã về đây rồi tôi lại viết thư ra nhắc lại lời dặn của tôi. Vậy sự ngài về chắc là không có.
Tôi sở dĩ về đây là vì Ngài và tôi ở bên ấy5, hoang-mang chẳng biết rõ gì cả, nhân có ông Cousseau6 do ông D’argenlieu7 sai sang gặp Ngài và tôi, nói Pháp sẵn lòng đổi thái-độ để cầu hoà-bình. Ngài thấy thế bảo tôi về tận nơi xem thái độ người Pháp có thật không, và nhân tiện xem ý tứ người Việt ta thế nào. Nếu làm được việc gì ích lợi cho nước và để cho dân đỡ khổ, thì ta cố làm cho trọn nghĩa-vụ của mình, nếu không thì lương-tâm ta cũng yên, vì đã cố hết sức mà không làm được8.
Tôi về đây hôm 6 tháng hai tây9, không gặp ông D’argenlieu, vì ông ấy sắp về Pháp. Ông ấy cho người bảo tôi chờ ông ấy sang sẽ nói chuyện. Tôi có gặp mấy người có chủ nhiệm về việc chính trị, nói chuyện thì tử-tế lắm và đồng ý hết cả. Nhưng xét ra họ nói một đường, làm một nẻo, toàn là những việc mưu-mô lừa dối cả. Lúc đầu tôi có xin cho tôi dược gặp ông, ông Hiền10 và Khiêm11, họ hứa sẽ cho vào ngay, nhưng mãi chẳng thấy ai vào. Tôi biết ý [tr1] cũng không hỏi nữa.
Tôi xem việc người Pháp làm, không thấy gì là chân thực. Họ thấy tôi giữ cái thái-độ khảng khái không chịu để họ lợi dụng, họ phao ra rằng tôi nhu-nhược và đa nghi không làm được việc. Họ cho những người Nam thân tín của họ đến nói muốn gặp tôi, tôi từ chối không gặp ai cả. Cũng vì thế tôi không muốn gặp ông Giáo. Tôi có nói với người Pháp rằng : Tôi về đây, là tin ở lời hứa hẹn của ông Cousseau là đại biểu của Thượng xứ Pháp, nay công việc không xong, thì cho tôi trả ra để bảo cho Ngài biết. Họ nói : Việc ấy cố nhiên rồi, nhưng ông hãy thong-thả chờ ít lâu. Họ nói thế, nhưng tôi biết là họ không cho tôi ra với Ngài, và họ lại cho người khác nói chuyện với Ngài12.
Dù sao, tôi cũng không ân-hận vì việc tôi về đây. Có về đây mới biêt rõ sự thực. Biết rõ sự thực thì cái bụng tôi yên không áy náy như khi ở ngoài kia. Bây giờ tôi nhất định không làm gì cả. Nếu thời cục yên-ổn thì tôi về ngoài Bắc, néu không tì xoay xở ở tạm trong này, chờ khi khác sẽ liệu.
Còn về phương diện người mình, thì tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng-nhăng chẳng đâu vào đâu cả. Ai cũng nói vì lòng ái-quốc, nhưng cái lòng ái-quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa-vị và quyền-lợi, thành ra tranh dành nhau, nghi-kỵ nhau rồi lăng-mã lẫn nhau. Tôi về đây chỉ gặp Thảo13, Hoè14 và Sâm15. Tôi bảo Sâm nên tìm cách đoàn kết nhau thành khối, thì mới có thể đối phó với người ta được. Sâm cũng cho ý kiến ấy là phải. Song một độ thấy bẵng đi, không đến gặp tôi, rồi bất thình-lình xuất hiện ra Mặt trận quốc gia16, mà không cho tôi biết. Mãi mấy hôm nay mới đến nói rằng vì sự đi lại khó khăn, nên không kịp nói cho tôi biết việc ấy. Tôi bảo hắn rằng : Việc ông làm đó, là việc nên làm, nhưng trước hết phải xếp đặt cho chu-đáo, phải có đủ các cơ-quan tuyên truyền và bênh-vực việc làm của mình. Nhất là phải giao-thông với Mặt trận kháng chiến17, họ [tr2] có đồng ý, thì việc ông làm hoạ may mới có hiệu-quả. Nay việc chưa xếp đặt ra gì cả mà ông đã vội-vàng xướng xuất ra như thế, tôi e khó thành được. Hắn nói : Việc đã trót rồi, đã ném lao thì phải theo lao.
Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó khăn quá, mà minh thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ cái dịa vị bàng-quan mà thôi, thật là:       
(Thân tại Nam phiên vô sở dự,
Tâm hoài bách ưu phục thiên lự.
= Thân ở cõi Nam không tham dự việc chính trị,
Lòng đã ôm trăm mối lo lắng lại thêm nghìn điều ưu lự)
Tôi vẫn biết việc chống với Pháp chỉ có V.M. mới làm nổi, nhưng vì chỉ tiếc họ quá thiên về chủ-nghĩa cọng-sản quá. Họ chỉ có một mục-đích là thi hành chủ nghĩa của họ, họ dùng đủ phương diện để đưa người ta vào cái chòng của họ. Sự hành-động của họ ở bên ta cũng như bọn cọng sản đã dùng ở bên Tàu và ở các nước khác, đều theo một lối đúng nhau như hệt. Họ không cần quốc-gia, không cần đạo-đức, nhưng có nhiều người tin ở nghĩa quốc-gia, thì họ lợi dụng cái nghĩa quốc-gia để đạt cái chủ-nghĩa của họ. Lừa dối xảo-quyệt đủ đường, cho nên người ta dễ mắc lừa lắm.
Nay V.M. đứng vào cái địa-vị chống Pháp, tất là có cái thanh-thế rất mạnh. Nếu họ biết đổi cái thái-độ hung tàn bạo ngược đi, và tìm cách thu dụng các đảng phái khác, để lập thành một khối, không khuynh hướng hẳn về Cọng sản, thì có cơ thành công được, nhưng bảo con chó sói trở nên con cừu, thì có thể được không? Dù sao, đối với viêc nước mình, V.M phải chịu cái tiếng (Công chi thủ tội chi khôi = Công đứng đầu mà tội cũng đứng đầu). Đó là ý kiến riêng của tôi, còn các ông nghĩ thế nào tôi không biết.
Khi tôi ở Hương- cảng, ông Cousseau có cho tôi biết tin ông Oánh18 bị Tây giết, tôi thương ông Oánh quá, có làm bài tuyệt- cú gửi về, nhờ ông đem điếu ông ấy:
            Khóc bạn Nguyễn Băng Hồ
            Đất khách mơ - màng những thở - than,
            Mảng tin bác bị lũ hung tàn.
            Ngắn dài giọt lệ lòng thương bạn,
            Căm giận quân thù đã tím gan.
Ông Oánh sinh thời là một người trung hậu ngay chính, ở đời này thật là ít có. Chẳng may vì duyên nghiệp mà phải cái nạn tai bay vạ gió. Thôi [tr3] thì cũng là một cách ông ấy trả nợ nước.
Tôi muôn nhờ ông một tí việc, khi tôi đi, tôi còn một bản đánh máy tập Vũ trụ đại quân19 gửi ông Oánh, nhờ ông thử hỏi nhà ông Oánh xem tập ấy có còn nữa không. Nếu còn, thì ông làm ơn giữ lấy cho tôi, kẻo công trình mất mấy năm trời mà mất đi, thì tiếc quá.
Nhờ ông nói với Khiêm, nhờ hắn đến qua chỗ nhà tôi ở Nhà Rượu20, xem có ai coi giữ cái nhà đã bị đốt21 đó không. Nếu có người coi, thì nhờ Khiêm thử vào trong nhà xem những sách vở có còn gì nữa, thì nhờ hắn nhặt đem về giữ lấy cho tôi. Còn cái nhà bên cạnh mà không hư hỏng lắm thì nhờ hắn xem có thể chữa sửa được không. Giá có thể chữa lại it nhiều rồi cho người ta tạm thuê để lấy tiền và cốt nhất là khi nào tôi có về được, mong còn có chỗ che sương che nắng.(Việc này không cần nữa, vì tôi đã gặp Khiêm ở đây rồi.)22
Ông có biết tin ông Bùi Kỷ23 bây giờ ở đâu không. Tôi về đây không có tin tức gì về đường nhà ông Bảng cả.
Nhà tôi và Chương24 đều có lời chúc ông bà được mạnh khoẻ. Tôi có lời thăm ông Hiền, Khiêm và Hoè và tất cả các bạn. Ông Hoè hôm ra Hà-nội có đến gặp tôi, nhưng vội quá, không viết được thư. Bây giờ ông Hoè ở đâu và làm gì?
Sau này ông có gửi thư cho tôi, nên để chờ khi nào có người chắc chắn vào đây, đưa đến cho tôi thì hơn. Không nên gửi người không được chắc chắn.
                                                            Nay kính thư
                                                                        Trần Trọng Kim [tr4]
Chú thích :

1. 8/5/1947 : ngày viết thư. Một cơn gió bụi có ghi việc Cao uỷ Pháp là Bollaert ra Bắc : “ngày 8/5 mấy hôm trước khi ông Bollaert ra Bắc, ông Didier Michel hẹn đến gặp tôi”. Bức thư có lẽ được cụ Trần nhờ Didier Michel gửi hộ.

2. Ông Hãn: Chỉ Hoàng Xuân Hãn, nguyên Bộ trưởng bộ giáo dục và Mỹ thuật của chính quyền Trần Trọng Kim trước Cách mạng tháng 8. Năm 1947 Hoàng Xuân Hãn còn đang ở Hà Nội.

3. Phan văn Giáo: Dược sĩ, chủ hiệu thuốc lớn ở Thanh Hoá, là nhà Tư sản nổi tiếng có tư tưởng thân Pháp. Bị bắt trong Cách mạng tháng 8, sau được thả ra. Sau năm 1945 tiến hành nhiều cuộc vận động để khôi phục chính thể quân chủ ở miền Nam.

4. Ngài : Chỉ vua Bảo Đại - Vĩnh Thuỵ, lúc này đã thoái vị. Sau được chính quyền cách mạng cử đi công cán Trung Quốc, thì ở lại không về và sang ở Hương Cảng. (Trần Trọng Kim; Phạm Khắc Hoè, sđd)

5. Bên ấy : Khi Cách mạng tháng 8 nổ ra thì Trần Trọng Kim đang ở Huế. Bảo Đại thoái vị, ông về ở làng Tại Lại Thế gần thôn Vĩ Dạ, đóng cửa đọc sách không ra ngoài. Đầu năm 1946 thì về Hà Nội, không tham gia việc gì nữa. Sau khi Bảo Đại đi sang Trung Quốc, rồi ở lại không về. Cuối tháng 5/1946, quân Tầu Tưởng rút dần về nước. Tháng 6/1946, Trần Trọng Kim theo một số người của Quốc Dân đảng sang Trung Quốc tìm bắt liên lạc với Bảo Đại, và gặp nhau ở Hương Cảng.

6. Cousseau : Quan cai trị, từng làm Công sứ ở nhiều tỉnh tại Bắc Kỳ, là người móc nối dàn xếp đưa Bảo Đại từ Hương Cảng về nước để thành lập chính phủ theo ý người Pháp. (Phạm Khắc Hoè. sđd)

7. D’argenlieu : Cao uỷ Pháp tại Đông Dương lúc bấy giờ. Năm 1947 thì về nước cho Bollaert sang thay. (sđd)

8. Trần Trọng Kim, sđd, tr166, 167...

9. hôm 6 tháng 2 tây : ngày Trần Trọng Kim về đến Sài Gòn. Một cơn gió bụi có ghi : “ngày 5 đến Sài Gòn, nhưng đến sáng mùng 6 mới lên bờ.”

10. ông Hiền : Luật sư Vũ Văn Hiền, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tài chính. Bị quân Pháp bắt giữ sau ngày toàn quốc kháng chiến năm 1946 ở Hà Nội cùng với Phạm Khắc Hoè, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Xuân Chữ, ... sau được thả ra. (Phạm Khắc Hoè, sđd)

11. Khiêm : Có thể là Phạm Duy Khiêm, người cùng tham gia với Trần Trọng Kim soạn sách “Việt Nam văn phạm”.

12. Trần Trọng Kim lúc này đã không còn giá trị. Người Pháp muốn tách ông ra khỏi Bảo Đại để không thể gây ảnh hưởng, cản trở ý đồ thành lập một chính phủ theo ý muốn của người Pháp.

13. Thảo : Luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1986), luật sư toà Thượng thẩm Sài Gòn, là một luật sư rất có uy tín, thường đứng ra bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động cấp dưới, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tư pháp, Phó chủ tịch hội đồng cố vấn chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam. Sau ra chiến khu tham gia thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hoà bình Việt Nam, đi nhiều nước vận động chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, Uỷ viên trung ương mặt trận tổ quốc, Đại biểu quốc hội.

14. Hoè : Phạm Khắc Hoè, giữ chức Đổng chưởng lý văn phòng Ngự tiền của vua Bảo Đại. Sau này đi theo kháng chiến, bị Thực dân Pháp bắt đưa về miền Nam dụ dỗ quay trở lại phục vụ Bảo Đại không thành, phải thả ông ra ở Hà Nội, ông tìm cách trốn khỏi thành phố lên chiến khu, có viết tập hồi ký “Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc”. Tập hồi ký này có nhắc đến việc ngày 16/4/1947, Phạm Khắc Hoè có đến chào từ biệt Trần Trọng Kim trước khi ra Hà Nội. Thư này viết sau khi Phạm Khắc Hoè đi Hà Nội gần một tháng (8/5/1947). (Phạm Khắc Hoè, sđd)

15. Sâm : Nguyễn Văn Sâm, Chủ tịch hội ký giả Nam Kỳ. Bị Thực dân Pháp an trí ở Sóc Trăng vì những hành động chống Pháp. Năm 1945, tham gia chính quyền Trần Trọng Kim, Hội viên hội đồng dự thảo Hiến pháp. Sau được phái đi làm Khâm sứ Nam Kỳ để tiếp thu Nam Kỳ được Nhật trao trả, chưa kịp thực hiện thì cách mạng tháng 8 bùng nổ. Là người tham gia thành lập Mặt trận quốc gia Việt Nam ở miền Nam, là thủ lĩnh đảng Việt Nam quốc dân độc lập, ông bị ám sát chết cuối năm 1947. (Nguyễn Quang Thắng, sđd)

16. Mặt trận quốc gia : Ngày 17-2-1947, Nguyễn Hải Thần, ông Nguyễn Tường Tam cùng một số nhân sĩ đã tiếp xúc với Bảo Đại và đã thành lập một Mặt Trận mệnh danh là Mặt Trận Quốc Gia nhóm tại Hương Cảng gồm: Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Chủ Xã Hội Đảng, Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn có mục đích lợi dụng Bảo Đại để tranh thủ độc lập nhưng Bảo Đại cũng như các nhà thực dân khác không chịu được sự "khó tính" của Mặt trận này nên đã gạt khéo Mặt trận ra ngoài và sau này, Bảo Đại về lập chính phủ chỉ có nhân viên của các nhóm tư bản và của đế quốc cộng tác mà thôi. Với những thành phần "Nam kỳ quốc" và bọn tay chân của đế quốc, Pháp tạo ra các chiêu bài độc lập, tính đánh lừa dân chúng Việt Nam nhưng đã thất bại. Nguyễn Văn Sâm chắc cũng tham gia trong mặt trận này.

17. Mặt trận kháng chiến : Chỉ Mặt trận kháng chiến của nhân dân miền Nam (?)

18. ông Oánh : Tức Nguyễn Quang Oánh (1888-1946), anh ruột Nguyễn Văn Ngọc (hiệu Ôn Như). Làm Thanh tra các trường Sơ học, Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền Trần Trọng Kim, từng cùng Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ biên soạn sách Tiểu học Việt Nam văn phạm giáo khoa thư. Toàn quốc kháng chiến, ông bị giặc Pháp ập vào nhà bắn chết ngày 22/12/1946. (Trần Văn Giáp, sđd); Nguyễn Băng Hồ : Chỉ tên hiệu của ông Nguyễn Quang Oánh là Băng Hồ.

19. Vũ trụ đại quan : Một trong các công trình nghiên cứu của Trần Trọng Kim. (Trần Văn Giáp, sđd)

20. Nhà Rượu : Trần Trọng Kim có nhà ở khu vực gần Nhà máy Rượu Hà Nội (phố Nguyễn Công Trứ). Tức là căn nhà 41 phố Hàng Chuối (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb.Vĩnh Sơn, S., 1969)

21. “Cái nhà của tôi ở phố nhà Rượu cũng bị quân tự vệ đốt cháy. Thành ra bao nhiêu sách vở của tôi, có lắm quyển rất cổ rất quý, tích trữ trong mấy chục năm, đều hoá ra tro tất cả. Tôi vẫn chưa hiểu vì lẽ gì mà họ đốt nhà tôi, hoặc là vì đốt nhà bên cạnh mà cháy lây sang, hoặc vì Việt Minh thấy tôi bỏ đi, họ giữ không được, họ cho lệnh đốt nhà cho bõ tức”. Trần Trọng Kim, sđd.

22. Tác giả tự đánh dấu, và ghi chú sang bên cạnh thư, nhắc việc này thôi vì đã nhờ được rồi.

23. Bùi Kỷ : Tức cụ Phó bảng Bùi Kỷ (1887-1960), Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền Trần Trọng Kim, cùng Trần Trọng Kim biên soạn nhiều tác phẩm : Truyện Thuý Kiều, Việt Nam văn phạm, Nho giáo. Chủ tịch Hội văn hoá kháng chiến liên khu 3, uỷ viên Hội Liên Việt liên khu, Chủ tịch hội hữu nghị Việt- Trung. (Trần Văn Giáp, sđd)

24. Chương : Luật sư Trần Văn Chương, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Ngoại giao. (Trần Trọng Kim; Phạm Khắc Hoè, sđd).
_____________
Thư mục tham khảo
1.Lệ thần - Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb Vĩnh Sơn, S,. 1969
2. Phạm Khắc Hoè, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, H,.1986
3. Nguyễn Quang Thắng, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. S,.1982
4. Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Hán Nôm II. H.,1987
5. La Sơn Yên Hồ - Hoàng Xuân Hãn. Nxb GD, H,. 1998 (2t)

Phụ lục ảnh nguyên bản:
.
 



 


-->đọc tiếp...

Thứ Năm, 8 tháng 8, 2013

CHUYỆN QUANH BẢN DỊCH TỜ LỆNH PHÁT HIỆN Ở ĐẢO LÝ SƠN

Bàn thêm về Phạm [Văn Thắm] tiên sinh
Lời dẫn của Lâm Khang chủ nhân: Tễu blog đăng lại bài này từ Blog Yêu Hán Nôm của Nguyễn Đức Toàn, vì bài này có nhắc đến bản dịch chung của Lâm Khang chủ nhân và Nguyễn Đức Toàn công bố trên báo Thanh Niên ngày 10.4.2009 - bản dịch mà ông Phạm Văn Thắm lu loa khắp nơi rằng dịch sai đến 90 %. 

Nhớ lại hồi cuối tháng 3 năm 2009, khi có tin Lý Sơn phát hiện văn bản Hán Nôm quý có liên quan đến việc khẳng định chủ quyền của VN tại Hoàng Sa, tôi đã rất quan tâm. Lại được TS Nguyễn Đăng Vũ (khi ấy là PGĐ Sở VH TT và DL) gửi cho bốn tấm ảnh chụp 4 trang văn bản đó. Tôi và Nguyễn Đức Toàn cùng dịch. Rồi chỉ mấy ngày sau, ngày 10.4, gia tộc họ Đặng quyết định hiến tặng cho nhà nước văn bản đó để làm tài liệu đấu tranh với Tàu. Tôi bỏ tiền túi mua vé máy bay đi Đà Nẵng rồi vào Lý Sơn mấy ngày - cùng đi có PV. Chiến Thắng của báo Lao động, muốn tận mắt thấy và tự mình giám định văn bản đó (kết quả sẽ làm chỗ dựa cho báo chí khi đăng tải). Chư vị có thể xem hình ảnh của chuyến đi, bản dịch và bài khảo cứu có liên quan tại các links sau: 





Vì văn của Thạc sĩ Nguyễn Đức Toàn đượm mùi cổ kính, hơi khó hiểu đối với người không quen đọc cổ văn nên Lâm Khang tôi tạm diễn giải và đính kèm ở cột bên phải. Ngoài ra tôi không có bình luận nào, xin nhường việc bình luận cho chư vị độc giả. Chuyện về ông nghè Phạm Văn Thắm (nguyên Trưởng phòng, nguyên Bí thư chi bộ Viện Hán Nôm) còn nhiều, lúc nào rảnh rỗi, lại xin hầu chuyện chư vị nữa.
  

NGUYÊN VĂN 

 

Bàn thêm về Phạm tiên sinh
Đồ Nghệ 

Phạm tiên sinh, biểu tự ý Son. Vốn cao nhân bổn Viện trí sĩ đã lâu.


Xưa gặp buổi Trung – Việt đối đầu, nghề Trung văn bất lợi. Mộc ân Thánh hóa, bổn viện sáng tân. Các cựu nho thạc học hết dần. Tân chế bài phong kiến, bức cựu học muôn phần. Phu thê đồng nhập Hàn các. Cũng là người trí thức hiền hòa quân tử ở đời, sống chân thành mộc mạc đã quen. Nơi rừng văn múa bút mấy phen; Gặp cội Đào cứng lòng giữa gió. Cũng có vết tích lưu truyền sử ký.





Gần đây, Trung – Việt đông hải dương ba. Những ngờ đời đôi phen sóng gió. Nhưng mệnh trời chẳng bỏ. Cựu thần trí sĩ, văn hiến ích chương. Được Lễ bộ thỉnh vào Tu toản. Sự biển đảo chửa từng qua, nhưng chữ nghĩa hằng xém mặt. Này công trình, nọ dự án. Cũng dự ngồi trung quỹ văn chương. Hành tẩu ngoại phương, ra chiều công cán. Khi phát biểu, khi bàn tán. Cửa Học viện cũng giáng nêu danh. Tỏ ý đua ghanh, phần tôi đúng nhất.







Dân tình bấy giờ để ý đến tài liệu Biển Đảo đã lâu không nhắc tới. Vì sự lãnh thổ chủ quyền ai nấy cũng muốn phát ngôn. Này giáo khoa thư trích dẫn. Kìa bản đồ cổ đề dâng. Đảo Lí Sơn họ Đặng tưng bừng, đem gia bảo nâng làm quốc bảo. Tờ bằng xưa cấp cho cụ tổ, dịp sóng cường quốc tế dâng lên. 

Bản Viện tôi cũng có một tên. Chưa ra dáng nhưng ông Nghè đỗ chắc. Tài văn hay đã nổi hai miền. Thương việc nước mà đau lòng vì nước. Nghĩ quốc bảo còn ở trong dân. Nên cố gắng mua vé đường gần. Bay 1 chuyến Lí Sơn trực đến, bản thảo về tay. Ngẫm văn tài cũng lắm người hay, một mình gánh việc nước cũng gay. Nên triệu tôi cùng ngồi thẩm luận. Hai vai đồng đối. Nghĩ sự lạ Cát Vàng cũng rối. Tôi đây cũng lắm mối mà hóa không. Vậy thì cùng đọc luận cho thông, để mà tường cái rối bời của thiên hạ. Bài dịch gửi báo, láo nháo 2 tên. 


Phạm tiên sinh lại động nỗi niềm. Đem tâm sự tuyên truyền khắp chốn. Nào dịch sai dịch dở. Nào lỗ mỗ ngắt câu. Mới thoáng nghe thực rất đau đầu. Chung quy lại 90 phần sai toét. 

Tai nghe miệng Tiên sinh sổ toẹt. Vội gấp hỏi sai những ở đâu. Phong Văn Tư cụ cũng lắm màu. Chỉ tủm tỉm chữ Khâm chưa được. Hai bên lảng lảng, sai nói bâng quơ. Nhìn nhau mắt những hững hờ. Chuyện béo bở những đâu im tiệt. Giấu chờ xôi chín oản đóng thành khuôn. Phần ai suất nấy, nào dám tơ hào. Nhưng bực cái thói vu phao, giữ phần cho chặt. Đồ Nghệ ta sai là chuyện vặt, mà phải đích danh. Ghét cái sự vòng quanh, sau lưng đưa hớt.

Chuyện cũ gác qua nay đà sách đến. Vạch mặt hỏi tên, chữ nghĩa đôi bên cho tường hư thực. Dẫn lại lời dịch cho kèm nguyên văn.

BẢN DIỄN GIẢI ĐỂ DỄ HIỂU HƠN

 

Bàn thêm về Phạm tiên sinh
Đồ Nghệ

 

Phạm tiên sinh tên Thắm (Tiến sĩ Phạm Văn Thắm), vốn là cán bộ của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, về hưu cũng đã lâu.


Trước đây, khi Trung – Việt còn đối đầu, người tốt nghiệp ngành Trung văn đều bất lợi. Nhờ chính phủ quan tâm, thành lập ra Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Khi ấy, các nhà Nho lão thành uyên bác thưa dần mà việc bài bác phong kiến cũng làm nghẹt cựu học lắm. Hai vợ chồng Phạm tiên sinh đều về làm việc tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Tiên sinh cũng là người trí thức hiền hòa quân tử, có lối sống chân thành mộc mạc. Nơi rừng văn múa bút cũng trải mấy phen, có thư hùng một trận với ông Đào Thái Tôn, thành ra câu chuyện lưu truyền trong giới nghiên cứu.

Gần đây, Trung – Việt lại dậy sóng Biển Đông. Tưởng chừng chữ nghĩa yếu như thế, lại đã no đòn như vậy thì cũng không đoái hoài nữa, lại là một cán bộ từng giữ chức bí thư chi bộ đã nghỉ hưu. Nhưng mà vẫn được Bộ Ngoại giao mời đến, giao cho việc sưu tầm biên soạn chỉnh lý tài liệu. Việc nghiên cứu về tư liệu biển đảo chưa từng làm qua, mà chữ nghĩa cũng dốt nát từng bị mắng đến xém mặt. Này công trình, nọ dự án, lại cũng ngồi trong quỹ nọ quỹ kia, đi nước này nước nọ ra chiều bôn tẩu công cán lắm! Khi thì đứng lên phát biểu, lúc cũng lớn tiếng lạm bàn. Phạm tiên sinh cũng đã từng được mời làm giảng viên của Học viện Khoa học xã hội Việt Nam. Trong luận bàn, tuy Phạm tiên sinh ù lỳ về tư duy, vẫn cứ có ý đua ganh cho mình là nhất.

Nay, dân tình đang để ý đến tài liệu biển đảo từng nằm im trong các thư viện, ai cũng muốn phát ngôn về chủ quyền lãnh thổ. Nào trích dẫn giáo khoa thư. Nào hiến tặng bản đồ cổ. Họ Đặng ở đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) vui mừng đem hiến dâng cho nhà nước tờ bằng cấp, để từ một của gia bảo thành ra một quốc bảo.

Viện tôi có một anh tiến sĩ  - tài văn ầm ĩ khắp hai miền – thương việc nước mà đau lòng vì nước, nghĩ rằng quốc bảo còn ở trong dân nên đã tự bỏ tiền mua vé máy bay vào Lý Sơn để tận mắt trông thấy văn bản đó. Về, anh ấy mời tôi cùng thảo luận và giám định văn bản. Hai anh em cùng ngồi dịch với nhau. Xong thì gửi đăng báo, ghi tên cả hai chúng tôi.






Phạm tiên sinh lại động nỗi niềm, mới đưa chuyện khắp nơi rằng chúng tôi nào dịch sai, dịch dở, nào là ngắt câu lỗ mỗ rồi kết luận rằng bản dịch dịch sai đến 90 %.

Tôi, tai nghe Phạm tiên sinh sổ toẹt bản dịch, bèn hỏi sai ở chỗ nào. Cụ Phong Văn Tư thì chỉ cười tủm tỉm bảo dịch chữ “Khâm” như thế là chưa được. Tôi với Phạm Văn Thắm tiên sinh thành ra nhìn nhau như người xa lạ. Sau đó, Phạm tiên sinh kiếm được cái dự án béo bở ở Bộ nọ, chuyện đó cũng giấu biệt đi chẳng nói với ai. Xôi đã đóng thành oản, xôi mình mình giữ, oản mình mình ăn. Tôi là dân Nghệ rất ghét cái sự loanh quanh, hớt lẻo sau lưng.

Chuyện bẵng đi đã lâu, nay sách đã ra. Bèn vạch mặt hỏi tên, rồi xem từng chữ nghĩa đôi bên cho rõ hư thực xem thế nào. Thì đây, nguyên văn như thế này:



Đối chiếu so sánh hai bản dịch:
.

Bản dịch của Nguyễn Đức Toàn – Nguyễn Xuân Diện
 
Bản dịch của Bộ Ngoại giao
Quan Án sát và Bố chánh tỉnh (Quảng) Ngãi làm việc cấp bằng này. 

Chiếu theo tháng trước tiếp được công văn của bộ Binh, vâng sắc (triều đình) cho bộ ấy trước là phải thi hành việc tuyển chọn, trưng tập 3 thuyền, sửa sang bền chắc, đợi sẵn ở kinh. Các phái viên và lính thủy đi trước để cùng thám sát các vùng của xứ Hoàng Sa. 



Nhân kính theo đó mà xem xét và tuyển chọn trong tỉnh 3 thuyền tốt, cùng với đó là các vật dụng được tu bổ vững chắc, lại chọn ra tên Võ Văn Hùng – đã được cử đi từ năm trước và chọn thêm những dân phu ven biển thạo đường biển để sung làm thủy thủ trên thuyền. Cốt yếu là phải chọn mỗi thuyền 8 tên, tổng cộng là 24 tên, cứ đến hạ tuần tháng Ba thì thuận theo thời tiết mà đi.


Nay, nhân các việc đã xong xuôi, các phái viên đã đi lê thuyền đến; chọn thủy thủ giỏi mà Võ Văn Hùng đã tuyển chọn là bọn Đặng Văn Siểm có thể đảm nhận công việc lái thuyền. Nhân đấy mà cấp cho bằng này để đi một thuyền dẫn các thủy thủ trên thuyền theo quân của phái viên và Võ Văn Hùng cùng đến Hoàng Sa thi hành việc công.



Đường biển ấy là nơi quan yếu, phải dốc sức mà thừa hành để cho công việc được mười phần trọn vẹn. Nếu bất cẩn, sẽ phạm trọng tội.



Các người có trách nhiệm kê ở dưới đây. Vậy nên có bằng cấp này.
Trở lên là bằng cấp.
Đà công Đặng Văn Siểm người phường An Hải huyện Bình Sơn và Dương Văn Định, người thôn Hoa Diêm theo đây mà thi hành.
 Kê:
Thủy thủ:
Tên Đề - Phạm Vị Thanh, An Vĩnh phường;
 Tên Sơ - Trần Văn Kham, An Vĩnh phường;

Tên Lê - Trần Văn Lê, Bàn An ấp; thuộc đội súng ống, 2 tên.
 Vũ Văn Nội,
Tên Trâm - Ao Văn Trâm, Lệ Thủy Đông hai tên
Tên Xuyên - Nguyễn Văn Mạnh, An Hải phường
Tên Doanh - Nguyễn Văn Doanh, Mộ Hoa huyện, An Thạch, Thạch Than thôn
Trương Văn Tài
Minh Mệnh năm thứ 15 (1834), tháng Tư, ngày 15.[1]

Quan Bố chính, Án sát tỉnh [Quảng] Ngãi căn cứ vào việc cấp bằng.

Theo tờ tư1 của bộ Binh nhận được tháng trước có đoạn trình bày: Vâng theo sắc lệnh2 [của nhà vua], bộ đã tư [cho tỉnh] chuẩn bị điều động trước ba chiếc thuyền lớn3, cho tu sửa chắc chắn đợi tại kinh, Phái viên4 và Biền binh5 thủy quân đến trước để hiệp đồng nhanh chóng đi khảo sát các xứ của Hoàng Sa. Hãy tuân mệnh.

[Kính vâng theo, tỉnh thần6] làm lễ cầu khấn7, [sau đó], điều động, thuê ba chiếc thuyền nhanh, nhẹ ở tỉnh cùng các vật kiện theo thuyền, mỗi loại đều cho tu bổ [cẩn thận]. Lại phái Vũ Văn Hùng, người được cử đi năm trước và chọn thêm dân phu miền biển am hiểu đường biển sung làm thủy thủ phục vụ trên thuyền trước sau, mỗi thuyền 8 người cộng 24 người, [đến] mùa từ hạ tuần tháng 3 thuận gió, thì nhanh chóng cho thuyền ra khơi.


Nay các việc lo liệu xong xuôi, Phái viên đã đi thuyền đến. Nay căn cứ vào các lý lẽ tuyển lựa của Vũ Văn Hùng [là] phù hợp, [tỉnh thần] thực hiện cấp bằng cho những thủy dân thạo đường biển là bọn Đặng Văn Xiểm đảm đương công việc lái thuyền, [bọn Đặng Văn Xiểm] hãy đi trên một chiếc thuyền, dẫn theo thủy thủ trong đoàn theo Phái viên, Biền binh và Vũ Văn Hùng đến Hoàng Sa thực hiện công vụ.


Chuyến đi này có tầm quan trọng đặc biệt, các người phải dốc lòng thực hiện công việc cho thực sự thỏa đáng. Nếu sao nhãng, sơ xuất tất bị trọng tội.

Tất cả số người bao nhiêu đều liệt kê dưới đây. Các người lái thuyền là bọn Đặng Văn Xiểm, người phường An Hải huyện Bình Sơn, Dương Văn Định người thôn Hoa Diêm được cấp bằng trên đây chiểu theo thi hành.

Ngày 15 tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 15 (1834)
Thủy thủ:
Tên Đề Phạm Vị Thanh, người phường An Hải
 Tên Trâm Ao Văn Trâm, người Lệ Thủy Đông (hai tên)
 Tên Sơ Trần Văn Kham, người phường An Vĩnh
 Tên Xuyên Nguyễn Văn Mạnh, người phường An Hải
 Tên Lê Trần Văn Lê, người ấp Bàn An
 Tên Doanh Nguyễn Văn Doanh, người thôn Thạch Ốc An Thạch huyện Mộ Cách.
 Từ đội Kim Thương đưa sang hai tên
Vũ Văn Nội
 Trương Văn Tài

Vốn chúng tôi còn có Phiên âm, ngắt câu cũng lỗ mỗ. Chả dám đưa lên mà lại phiền đến Tiên sinh chỉ giáo. Ai muốn tỏ thì lên đây thời rõ.http://www.lyson.org/t53-topic
Chú thích:
1-       Tư : thuật ngữ chỉ một loại hình văn bản hành chính dành cho các quan. Các quan sử dụng loại văn bản này để truyền đạt công việc như dạng công văn ngày nay.
2-       Sắc : thuật ngữ chỉ một loại hình văn bản hành chính chuyên dành cho nhà vua. Nhà vua sử dụng loại văn bản này để ban mệnh lệnh yêu cầu quần thần phải thực hiện một công việc nào đó.
3-       Chinh thuyền: một loại thuyền lớn chuyên dùng cho việc đi tuần nơi biển khơi xa xôi.
4-       Phái viên: người được triều đình cử đi thực hiện công vụ
5-       Biền binh: chức quan võ cấp thấp trong quân đội thời phong kiến
6-       Tỉnh thần: tên gọi chung cho các quan làm việc ở tỉnh. Ở đây chỉ quan Bố chính và Án sát.
7-       Kỳ : thuật ngữ trong tế lễ. Xét ở góc độ từ loại, kỳ () là động từ thì mang nét nghĩa cầu mong, kỳ () là danh từ thì mang nét nghĩa là một loại hình thức tế lễ cầu khấn. Từ kỳ () xuất hiện trong văn bản hành chính, mang nét nghĩa tế lễ cầu khấn, điều này phù hợp với các tập tục của người dân vùng biển, trước khi đi biển bao giờ họ cũng làm lễ cầu khấn, mong sự bình yên trước khi ra khơi.[2]


Nhưng các vị biên tập giả nhầm, cái này không phải Châu Bản mà là Bằng cấp của Tỉnh cho cụ tổ họ Đặng. Chẳng có 1 chữ Châu phê nào hết. hi hi !!!



[1] http://www.lyson.org/t53-topic; Tễu – Blog; ...
[2] Bộ Ngoại Giao/ Ủy ban Biên giới Quốc gia. Tuyển tập các Châu bản triều Nguyễn về thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nxb Tri thức Hà Nội 2013.
trang 94-100
Nguyên văn ảnh trong sách mới ra:

trang 94
95
96
98
97
99
100
Còn văn bản thứ 18 trang 188, cũng có chữ Sắc tỏ ý vua ban. Phạm tiên sinh không chú thích nữa. 
188
189
191


-->đọc tiếp...