Blogger Widgets
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Hồng Kiên. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Hồng Kiên. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 11 tháng 6, 2013

CHẾT CƯỜI VỚI TÍNH TOÁN CỦA QUỐC HỘI !

Không nên trách ban kiểm phiếu 
của Liên đoàn bóng đá 

Ban kiểm phiếu gồm 29 người, với 492 phiếu đánh giá 47 Đại biểu QH mà cũng nhầm lẫn. Năng lực của các đại biếu QH như  thế này sao? 

Trước đó, sau khi công bố kết quả kiểm phiếu và công bố dự thảo nghị quyết xác nhận kết quả lấy phiếu tín nhiệm, một số ĐBQH phản ánh có một vài điểm mà thống kê chưa khớp với nhau (giữa kết quả kiểm phiếu do ông Đỗ Văn Chiến - Trưởng ban kiểm phiếu công bố và kết quả trong nghị quyết xác nhận kết quả lấy phiếu tín nhiệm, liên quan đến số phiếu của Bộ trưởng Bộ Thông tin truyền thông Nguyễn Bắc Son và Bộ trưởng Bộ khoa học công nghệ Nguyễn Quân, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường Nguyễn Minh Quang.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng ngay lập tức yêu cầu ban kiểm phiếu kiểm tra lại.

Sau khi ban kiểm phiếu đã rà soát lại số liệu, ông Đỗ Văn Chiến – trưởng ban kiểm phiếu cho biết các phát hiện của ĐBQH là chính xác.

Đối với ông Nguyễn Quân, Bộ trưởng Bộ Khoc học Công nghệ: Số phiếu tín nhiệm cao lúc đọc là 123, kiểm tra lại toàn bộ và nghị quyết, số chính xác là 133.

Với bộ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường Nguyễn Minh Quang, sau khi kiểm tra lại từ biên bản gốc, trên máy, dự thảo nghị quyết, số liệu chính xác là: Số phiếu tín nhiệm cao 83, tín nhiệm 294, tín nhiệm thấp 104.

Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son: Kiểm tra lại từ số liệu gốc, biên bản, dự thảo nghị quyết, số liệu chính xác là: Tín nhiệm cao 121 phiếu, tín nhiệm 281 phiếu và tín nhiệm thấp có 77 phiếu. 

“Trong quá trình kiểm phiếu và thống kê không tránh khỏi sai sót, Ban kiểm phiếu thành thật nhận lỗi và xin Quốc hội tha thứ”, ông Đỗ Văn Chiến nói.

Nguồn: Dang Ba blog


Nhà cháu coi lại, thấy NGAY SỐ TỔNG đã có mâu thuẫn:
- Ông Trương Tấn Sang có Số phiếu hợp lệ: 491 - Số phiếu không hợp lệ: 0
- Ông Nguyễn Sinh Hùng có Số phiếu hợp lệ: 492 - Số phiếu không hợp lệ: 0
DƯ THẾ LÀ DƯ LÀO ?

SỐ LIỆU 03 'VÒNG' CỦA 2 ÔNG NÓI TRÊN TÍNH RA %:
- Của ông Trương Tấn Sang:
66,27 + 26,71 + 5,62 = 98,60 VẬY CÒN 1,40% ĐI ĐÂU ?
- Của ông Nguyễn Sinh Hùng :
65,86 + 27,91 + 5,02 = 98.79 VẬY CÒN 1,21% ĐI ĐÂU ?


Một bác giấu tên:
Tôi cũng tính thử, nếu theo báo chí, có 498 ĐB nhưng chỉ có 491 phiếu hợp lệ, nghĩa là có 7 người tẩy chay lấy tín nhiệm bằng cách bỏ phiếu trắng hay gạch quá tay. Ngay theo số liêu đã sửa cua a son là 121 181 77 thì tổng số phiếu chọn là 22995 trong khi 491x47= 23077, thiếu mất 82 phiếu.
Tôi chỉ sử dụng kiến thức toán lớp 3 mà không hiểu, chắc văn hóa các nghị sỹ quá cao so với lớp 3 nên tôi không tính được


Bài đọc thêm:
Cách tính khác xếp loại tín nhiệm của Quốc hội
 

Chỉ sau một giờ thông báo của QH về việc xếp loại tín nhiệm, nhiều người đã đưa ra những cách xếp loại, phần mềm này được đánh giá hay và khoa học thế giới hay dùng. Xin giới thiệu hai cách: 

Cách tính thứ nhất:
Tính theo chỉ số tín nhiệm quan chức, có 7 bộ trưởng có chỉ số âm


Báo chí VN vừa được phép công bố các con số về bỏ phiếu tín nhiệm của quốc hội với gần 50 vị quan chức chính phủ. Trong danh sách này không có các vị quan chức của ĐCS: hiện ở VN, ĐCS là “lực lượng lãnh đạo tối cao” nằm ngoài vòng kiểm soát của bất cứ cái gì, bởi vậy danh sách dưới đây mới chỉ là một phần các quan chức “tai to mặt lớn nhất” ở VN.

Các quan chức được các đại biểu QH đánh giá ở 3 mức, gọi là: tín nhiệm cao, tín nhiệm, và tín nhiệm thấp. Tổng số phiếu của 3 mức cho mỗi quan chức là 491. Để lập ra một chỉ số tín nhiệm từ 3 con số này, có thể lấy một tổ hợp tuyến tính của chúng, kiểu như

a x A + b x B + c x C

trong đó a,b,c là 3 hệ số, còn A,B,C là số phiếu tín nhiệm ở 3 mức. Vì có ràng buộc tuyến tính A + B + C = 491, nên tổng trên có thể viết thành

(a – b) x A + (c – b) x C + b x 491

Vì phần b x 491 là hằng số (không phụ thuộc vào quan chức) nên không dùng để so sánh được và có thể loại đi k

a-b = 1 và c-b = -1

có nghĩa là: cứ 1 phiếu “tín nhiệm cao” thì tính 1 điểm dương, còn 1 phiếu “tín nhiệm thấp” thì tính 1 điểm âm. Điểm tín nhiệm = số phiếu “tín nhiệm cao” trừ đi số phiếu “tín nhiệm thấp”. Với cách tính này, ta được các chỉ số tín nhiệm sau (trên 491):

Nguyễn Thị Kim Ngân (PCT QH): 372 – 14 = 358
Trương Thị Mai (UB vấn đề xã hội): 335 – 6 = 329
Uông Chung Lưu (PCT QH): 323 – 13 = 310
Phùng Quang Thanh (Quốc phòng): 323 – 13 = 310
Nguyễn Sinh Hùng (PCT QH): 328 – 25 = 303
Trương Tấn Sang (CT nước): 330 – 28 = 302
Tòng Thị Phóng (PCT QH): 322 – 24 = 298
Phùng Quốc Hiến (UB tài chính ngân sách): 291 – 11 = 280
Phan Trung Lý (UB pháp luật): 294 – 18 = 276
Nguyễn Thị Nương (Công tác đại biểu): 292 – 17 = 275
Nguyễn Hạnh Phúc (Văn phòng QH): 286 – 12 = 274
Nguyễn Văn Giàu (UB kinh tế): 273 – 15 = 258
Nguyễn Kim Khoa (UB an ninh quốc phòng): 267 – 9 = 258
Nguyễn Thị Doan (PCT nước): 263 – 13 = 250
Trần Văn Hằng (UB đối ngoại): 253 – 9 = 244
Trần Đại Quang (CA): 273 – 34 = 239
Ksor Phước (Hội đồng dân tộc): 260 – 28 = 232
Huỳnh Ngọc Sơn (PCT QH): 252 – 22 = 230
Đào Trọng Thi (UB Văn hóa giáo dục): 241 – 19 = 222
Phạm Bình Minh (Ngoại giao): 238 – 21 = 217
Nguyễn Xuân Phúc (PTT): 248 – 35 = 213
Phan Công Dung (UB khoa học công nghệ môi trường): 234 – 22 = 212
Bùi Quang Vinh (Kế hoạch+ đầu tư): 231- 46 = 185
Vũ Đức Đam (Văn phòng CP): 212 – 29 = 183
Nguyễn Văn Hiện (UB Tư pháp): 210 – 28 = 182
Nguyễn Hòa Bình (VKSND): 198 – 23 = 175
Trương Hòa Bình (TAND): 195 – 34 = 161
Hoàng Trung Hải (PTT): 186 – 44 = 142
Hà Hùng Cường (Tư pháp): 176 – 36 = 140
Nguyễn Thiện Nhân (PTT): 196 – 65 = 131
Cao Đức Phát (Nông nghiệp): 184 – 58 = 126
Vũ Văn Ninh (PTT): 167 – 59 = 108
Giàng Seo Phử (Dân tộc): 158 – 63 = 95
Nguyễn Quân (KH & CN): 133 – 43 = 90
Đinh La Thăng (GTVT): 186 – 99 = 87
Huỳnh Phong Thanh (Thanh tra CP): 164 – 87 = 77
Nguyễn Tấn Dũng (TT): 210 – 160 = 50
Nguyễn Bắc Son (TTTT): 121 – 77 = 44
Nguyễn Thái Bình (Nội vụ): 125 – 92 = 33
Trịnh Đình Dũng (Xây dựng): 131 – 100 = 31
Phạm Thị Hải Chuyền (Lao động): 105 – 111 = -6
Nguyễn Minh Quang (Tài nguyên môi trường): 83 – 94 = -11
Vũ Huy Hoàng (Công Thương): 112 – 128 = -16
Hoàng Tuấn Anh (Văn hóa thể thao): 90 – 116 = -26
Nguyễn Thị Kim Tiến (Y tế): 108 – 146 = -38
Phạm Vũ Luận (Giáo dục): 86 – 177 = -91
Nguyễn Văn Bình (Ngân hàng NN): 88 – 209 = -121


Các con số trên khá thú vị. Nó cho thấy, tuy QH rất “dè dặt” nhưng cũng đã cho chỉ số tín nhiệm âm cho 7 vị bộ trưởng. Ghế của các vị này chắc đang lung lay nặng.


Cách tính thứ hai (dùng biểu đồ): 
.

Nguồn: Dang Ba blog
-->đọc tiếp...

Thứ Hai, 27 tháng 5, 2013

CÁC ÔNG ĐỊNH XỔ TOẸT TẤT CẢ CÁC ĐÓNG GÓP SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP ?

Tổng thuật của TS Nguyễn Hồng Kiên
TẠI SAO Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và là người phát ngôn của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 Phan Trung Lý LẠI CÓ THỂ PHỦ NHẬN TẤT CẢ CÁC KẾT QUẢ ĐÓNG GÓP SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP , KHI BẢO "Không đưa vấn đề ban hành luật về Đảng"- http://www.tienphong.vn/xa-hoi/627949/Khong-doi-ten-nuoc-khong-ban-hanh-luat-ve-Dang-tpov.html ???

BỎ QUA Hội nghị góp ý về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức ngày 19/2, NƠI ÔNG Ông Hoàng Thái, nguyên Ủy viên Ban thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam PHÁT BIỂU: "“Nhà nước, Quốc hội, mặt trận đều có luật mà Đảng không có luật, phải có luật để công khai minh bạch, tránh tùy tiện" (http://vneconomy.vn/20130219100153156P0C9920/gop-y-sua-hien-phap-phai-co-luat-ve-su-lanh-dao-cua-dang.htm)
BỎ QUA Ý KIẾN CỦA ÔNG Nguyên Phó Tổng thư ký UB TƯ MTTQ Việt Nam Lê Quang Vịnh: "Nếu chỉ nói về chuyện tổ chức Đảng phải chịu sự giám sát của nhân dân song không xúc tiến để ban hành luật thì sẽ chỉ là khẩu hiệu, là mệnh lệnh mà thôi." (http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/109835/thoi-diem-chin-muoi-xay-dung-luat-ve-dang.html
BỎ SỌT RÁC CẢ Phát biểu tại hội nghị góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992 sáng 27/2, giáo sư Nguyễn Quang Thái (Tổng thư ký Hội khoa học kinh tế) :"Có một đạo luật về hoạt động của Đảng để giám sát, phản biện thì sẽ giảm một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nói" (http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2013/02/can-luat-ve-dang-de-giam-bo-phan-can-bo-thoai-hoa-1/)

NHƯNG ĐÂY LÀ 02 Ý KIẾN CỦA CHÍNH CÁC ĐẢNG VIÊN CÓ CHỨC VỤ CAO CỦA ĐCSVN:
- Cần có cơ chế giám sát trách nhiệm của Đảng để “không cho phép Đảng lãnh đạo trở thành đảng trị, với những đặc quyền đặc lợi” (tọa đàm góp ý cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (HP) 1992 do tạp chí Cộng Sản phối hợp với ĐHQG TP.HCM tổ chức, sáng 9/3. - http://phapluattp.vn/20130309100747458p0c1013/khong-cho-phep-dang-lanh-dao-tro-thanh-dang-tri.htm
- Bà Nguyễn Thị Quyết Tâm, Phó Bí thư Thành ủy TP.HCM, Chủ tịch HĐND TP.HCM khẳng định quan điểm duy trì Điều 4 là đương nhiên, nhưng cần làm rõ trách nhiệm của đảng viên và tổ chức Đảng trước pháp luật và nhân dân về các quyết định của mình. Nên có một đạo luật riêng về Đảng trên giấy tờ cụ thể, chứ không thể nói chung chung được.(http://infonet.vn/Thoi-su/Gop-y-Hien-phap/Khong-the-bo-Dieu-4-trong-Hien-phap/64032.info)
LÝ XỰ CỦA ÔNG LÝ CÒN CÙN HƠN DLV:
"Có ý kiến đề nghị làm rõ hơn cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, cơ chế chịu trách nhiệm của Đảng và cơ chế để nhân dân giám sát Đảng. Ý kiến này đề nghị cần có Luật về Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm tạo cơ sở pháp lý cho Đảng thực thi vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình đối với Nhà nước và xã hội, tạo sự minh bạch trong hoạt động của Đảng, tạo cơ sở cho nhân dân giám sát hoạt động của tổ chức Đảng và đảng viên.
Về vấn đề này, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Đảng ta là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo thông qua Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng và chính sách, chủ trương lớn của mình... Cách thức, nội dung lãnh đạo được thể hiện linh hoạt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn, từng thời kỳ. Bên cạnh đó, quy định mọi tổ chức Đảng, đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật hiện đã là một bảo đảm quan trọng để nhân dân có điều kiện giám sát, giúp cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh hơn, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Hơn nữa, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cũng là vấn đề đang được tổng kết, nghiên cứu. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội không đưa vấn đề ban hành luật về Đảng vào Dự thảo Hiến pháp." http://www.tienphong.vn/xa-hoi/627949/Khong-doi-ten-nuoc-khong-ban-hanh-luat-ve-Dang-tpov.html
ĐÂY NỮA Ạ:
- Hiến pháp cần có một chương về Đảng
(VOV) -Đây là ý kiến của PGS -TS Ngô Huy Tiếp, Học viện Xây dựng Đảng, trong hội thảo về góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992- http://vov.vn/Chinh-tri/Hien-phap-can-co-mot-chuong-ve-Dang/250573.vov

 Nguồn: FB Nguyễn Hồng Kiên
 
-->đọc tiếp...

Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2013

BÌNH LUẬN NHANH PHÁT BIỂU BẾ MẠC HN TW 7 CỦA ÔNG NGUYỄN PHÚ TRỌNG

 
Sáng 11/5, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã hoàn thành toàn bộ chương trình đề ra, sau 10 ngày làm việc khẩn trương, dân chủ, nghiêm túc.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu bế mạc, khái quát lại những kết quả chủ yếu mà Hội nghị đạt được.
TS. Nguyễn Hồng Kiên bình luận về bài phát biểu bế mạc Hội nghị TW 7 của Ông Nguyễn Phú Trọng:
"KINH CHƯA: MỤC 4 "Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường" CHIẾM TỚI 1069 CHỮ TRONG TỔNG SỐ 4812 CHỮ CỦA VĂN BẢN Phát biểu bế mạc hội nghị TW thứ 7 của BÁC TRỌNG !!!
TRONG KHI: 
- MỤC 1 "Về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị" CÓ 864 CHỮ
- MỤC 2 VỀ XÂY DƯNG ĐẢNG CÓ 769 CHỮ
- MỤC 3 VỀ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992 GỒM 485 CHỮ
- MỤC 5 "nhận định, đánh giá và đề xuất nêu trong Báo cáo sơ kết 1 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI" GỒM 905 CHỮ
- PHẦN CUỐI GỒM 553 CHỮ (PHẦN ĐẦU 167 CHỮ)"(Hết trích dẫn)

Tễu kết luận: Ông Nguyễn Phú Trọng đã mất hết uy tín trong đảng của ông và trong dân. Ông nên xin nghỉ để khỏi ảnh hưởng thêm nữa đến uy tín đã đáo đáy của Đảng cộng sản Việt Nam. 
Phát biểu bế mạc hội nghị TW thứ 7 của Tổng Bí thư

“Thưa các đồng chí Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
 

Sau 10 ngày làm việc khẩn trương, dân chủ, nghiêm túc, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã hoàn thành toàn bộ chương trình đề ra. Các đồng chí Ủy viên Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, phát huy trí tuệ, thẳng thắn thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc vào các đề án, báo cáo. Bộ Chính trị đã tiếp thu tối đa và giải trình những vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Ban Chấp hành Trung ương đã thống nhất cao thông qua nội dung các nghị quyết, kết luận của Hội nghị. Để kết thúc Hội nghị, thay mặt Bộ Chính trị, tôi xin phát biểu làm rõ thêm một số vấn đề và khái quát lại những kết quả chủ yếu mà Hội nghị đã đạt được.

1- Về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị: Qua trao đổi, thảo luận, Trung ương nhấn mạnh, củng cố, kiện toàn, từng bước hoàn thiện hệ thống chính trị là công việc rất lớn, hệ trọng và phức tạp, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Vừa qua, chúng ta đã có nhiều cố gắng và đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần vào thành tựu chung của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển, vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém. Tổ chức bộ máy vẫn cồng kềnh, chồng chéo; biên chế vẫn phình to, nặng nề; chất lượng cán bộ, công chức chậm được nâng cao; hoạt động của toàn hệ thống có những khâu chưa thông suốt, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn một số vấn đề về phương thức lãnh đạo của Đảng, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân có những điểm còn chưa đủ sáng tỏ. Việc quán triệt, tổ chức thực hiện các quan điểm, chủ trương đúng đắn của Đảng trong lĩnh vực này chưa thực sự kiên quyết, nhất quán; một số chủ trương, chính sách chưa phù hợp chậm được phát hiện, điều chỉnh, sửa đổi. Chưa tiến hành đồng bộ giữa đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy với bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách.

Trung ương yêu cầu, thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, nhằm mục tiêu xây dựng tổ chức bộ máy đồng bộ, tinh gọn, có tính ổn định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng hợp lý, có phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị phải đồng bộ với đổi mới thể chế kinh tế; thống nhất giữa các tổ chức trong toàn hệ thống, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Kiện toàn tổ chức bộ máy phải đi đôi với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Hoàn thiện thể chế phải gắn liền với đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng. Đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công. Tăng cường quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân, nhất là ở cơ sở. Không nhất thiết ở Trung ương có tổ chức nào thì ở địa phương cũng có tổ chức đó. Đối với những vấn đề thực tiễn đòi hỏi, đã đủ rõ, chín muồi thì kiên quyết thực hiện; những vấn đề chưa đủ rõ, còn có ý kiến khác nhau thì cần chỉ đạo khẩn trương nghiên cứu, tổng kết để làm rõ, có bước đi thích hợp, không nóng vội, chủ quan, duy ý chí...

Trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo chung nêu trên, cần tiếp tục rà soát, kiện toàn các cơ quan tham mưu, giúp việc, đơn vị sự nghiệp của Đảng; hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước (bao gồm cả Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, chính quyền địa phương); đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội theo hướng tinh gọn, rõ chức năng, nhiệm vụ, không chồng chéo, trùng lắp.

Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí công tác, tiêu chuẩn chức danh, số lượng cán bộ, công chức, viên chức để giao, quản lý biên chế. Tiếp tục thí điểm khoán kinh phí hành chính để khuyến khích giảm biên chế. Tăng cường cán bộ kiêm nhiệm một số chức danh phù hợp. Thực hiện đúng quy định về số lượng cấp phó lãnh đạo, quản lý ở các tổ chức. Đẩy mạnh áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị sự nghiệp công lập, thực hiện "xã hội hoá" dịch vụ công, từng bước giảm chi lương viên chức từ ngân sách nhà nước; quản lý chặt chẽ việc thành lập mới các đơn vị sự nghiệp công lập, các tổ chức quần chúng và số lượng viên chức ở các đơn vị sự nghiệp công lập. Khẩn trương tổng kết và có kết luận về việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân ở một số huyện, quận, phường. Nghiên cứu, thí điểm xây dựng mô hình chính quyền đô thị. Thực hiện giảm dần số lượng cán bộ không chuyên trách cấp xã.

2- Hội nghị nhất trí cho rằng, tiếp sau Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng, việc lần này Trung ương bàn và ban hành Nghị quyết về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận là rất cần thiết trong tình hình hiện nay. Bởi vì chỉ có làm tốt công tác dân vận, tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa nhân dân với Đảng thì Đảng mới có sức mạnh. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, có rất nhiều vấn đề mới đặt ra tác động đến tư tưởng, tình cảm, đời sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Những hiện tượng phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, xa dân, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng là thách thức đối với mối liên hệ giữa dân với Đảng. Chỉ có đổi mới và làm tốt công tác dân vận, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với dân, cũng như khối đại đoàn kết toàn dân thì mới phát huy được sức mạnh to lớn của toàn dân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để thực hiện được yêu cầu trên, phải quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về dân vận, về đại đoàn kết dân tộc. Đặc biệt là phải tôn trọng và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân; hết lòng, hết sức chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, chú trọng đến lợi ích trực tiếp của người dân; luôn trọng dân, gần dân, hiểu dân, tin dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Thường xuyên chỉnh đốn, xây dựng Đảng, Nhà nước, chính quyền trong sạch, vững mạnh; mọi quan điểm, chủ trương của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước phải vì dân, xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu, tận tuỵ với công việc, nói đi đôi với làm để nhân dân tin tưởng, noi theo.

Tiếp tục nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của công tác dân vận. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước đến với nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về các hoạt động thông tin, truyền thông, định hướng dư luận xã hội; kịp thời ngăn chặn, đấu tranh với các thông tin xấu, độc hại, nhất là qua mạng Internet. Kiên quyết, kiên trì thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng, làm cho Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh; tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Tập trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc trong nhân dân, nhất là về đời sống, công ăn việc làm, giải tỏa, đền bù đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân, cải cách thủ tục hành chính; khắc phục tình trạng tiêu cực, phiền hà; ách tắc và tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội, bảo đảm an sinh xã hội… Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội, các hội quần chúng. Kiện toàn, nâng cao năng lực dân vận của các cơ quan, đơn vị và đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận trong toàn hệ thống chính trị, đặc biệt là trong các cơ quan hành chính nhà nước, các cán bộ thường xuyên có quan hệ, tiếp xúc trực tiếp với dân. Đổi mới mạnh tác phong công tác, thật sự gần dân, trọng dân, học dân. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.

3- Ban Chấp hành Trung ương hoan nghênh và cảm ơn đồng bào, chiến sĩ cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài đã nhiệt tình hưởng ứng, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Đồng thời, ghi nhận, biểu dương Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp và các cơ quan chức năng đã tổ chức chu đáo việc lấy ý kiến nhân dân; tổng hợp đầy đủ, tiếp thu nghiêm túc, giải trình các góp ý xây dựng để hoàn thiện thêm một bước dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình Quốc hội xem xét, quyết định. Qua đợt sinh hoạt chính trị dân chủ, sâu rộng này, nhân dân ta đã một lần nữa thể hiện cao độ lòng yêu nước, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, hết lòng chăm lo xây dựng Nhà nước ta, đất nước ta, dân tộc ta vững mạnh, trường tồn. Tuyệt đại đa số các tầng lớp nhân dân tán thành với nội dung của dự thảo và cho rằng: Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã bám sát mục tiêu, yêu cầu, quan điểm và định hướng lớn đã được xác định trong các nghị quyết, kết luận của Trung ương và Quốc hội, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân; khẳng định bản chất, mô hình tổng thể của thể chế chính trị và tổ chức bộ máy của Nhà nước ta đã được thể hiện trong Cương lĩnh và Hiến pháp hiện hành. Nội dung của Dự thảo đã có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới.

So với bản dự thảo được công bố, đã có rất nhiều ý kiến của nhân dân được tiếp thu, tập trung vào nhiều vấn đề quan trọng. Đối với những vấn đề mới, nhạy cảm, còn ý kiến khác nhau, Trung ương đã dành nhiều thời gian thảo luận, cho ý kiến chỉ đạo định hướng lựa chọn, tiếp thu, giải trình. Đối với các quan điểm sai trái, những luận điệu tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch, Trung ương kiên quyết phê phán, bác bỏ. Trung ương giao Đảng đoàn Quốc hội cùng với Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp, tiếp tục quán triệt đầy đủ và sâu sắc hơn nữa Cương lĩnh chính trị năm 2011 của Đảng, các nghị quyết, kết luận của Hội nghị Trung ương 2 và Hội nghị Trung ương 5, các kết luận của Bộ Chính trị và kết luận của Hội nghị lần này, khẩn trương chuẩn bị báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý, hoàn thiện bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để trình kỳ họp sắp tới của Quốc hội.

4- Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường: Trung ương cho rằng, đây là 3 lĩnh vực cực kỳ quan trọng, có nội dung phong phú, nhiều mặt và quan hệ mật thiết với nhau. Thời gian qua, các lĩnh vực này ở nước ta đã bước đầu được quan tâm, có bước phát triển và đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, hiện vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém. Việc ứng phó với biến đổi khí hậu còn nhiều lúng túng, bị động; thiệt hại về người và tài sản do thiên tai gây ra còn lớn. Tài nguyên chưa được khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững, một số loại bị khai thác quá mức nên bị suy thoái, cạn kiệt. Ô nhiễm môi trường còn diễn ra phổ biến, có xu hướng gia tăng, ở một số nơi rất nghiêm trọng; đa dạng sinh học suy giảm, gây nguy cơ mất cân bằng sinh thái trên diện rộng. Dự báo thời gian tới, tình hình còn diễn biến phức tạp, khó lường; khó khăn, thách thức có thể còn gay gắt, nặng nề hơn.

Để lãnh đạo, chỉ đạo phát triển những lĩnh vực quan trọng, phức tạp này, trước hết cần nâng cao nhận thức trong toàn đảng, toàn dân và toàn hệ thống chính trị, coi chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là vấn đề có ý nghĩa quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Việc xem xét, giải quyết các vấn đề phải dựa trên những nguyên tắc của phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất, liên ngành, liên vùng; vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa bảo đảm lợi ích lâu dài; vừa toàn diện vừa có trọng tâm, trọng điểm, có bước đi phù hợp.

Biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu, có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, thách thức nghiêm trọng đối với toàn nhân loại trong thế kỷ 21, đòi hỏi phải có tầm nhìn xa, chủ động nghiên cứu, dự báo và có các phương án ứng phó; không cường điệu, thái quá, nhưng cũng không được xem thường, chủ quan. Tài nguyên là tài sản quốc gia, là nguồn lực, nguồn vốn tự nhiên quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước, cần được đánh giá một cách khoa học, chính xác, trên cơ sở đó có kế hoạch quản lý, khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh; chú trọng phát triển, sử dụng năng lượng tái tạo, vật liệu mới, tái chế. Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, phải được lồng ghép trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa phương. Thực hiện phương châm lấy phòng tránh, ngăn ngừa là chính, đi đôi với kiểm soát, xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.

Nhiệm vụ chung đặt ra là: Phải đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững; thí điểm phát triển mô hình kinh tế xanh theo địa bàn và theo ngành, lĩnh vực và từng bước nhân rộng trên cả nước. Thực hiện phân vùng chức năng sinh thái làm cơ sở để xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngành, lĩnh vực và địa phương theo hướng phù hợp với đặc tính sinh thái từng vùng, hài hòa với thiên nhiên và thích ứng với biến đổi khí hậu. Thiết lập, ứng dụng các mô hình dự báo tổng thể tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên, môi trường và kinh tế-xã hội; thí điểm phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất tài nguyên, môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu cho lưu vực sông, vùng ven biển, sau đó nghiên cứu nhân rộng ra cả nước. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tổng hợp và thống nhất theo chuẩn quốc tế; có cơ chế phù hợp khai thác, chia sẻ thông tin, sử dụng hiệu quả cơ sở dữ liệu trên các lĩnh vực này.

Trong số các giải pháp đã đề ra, cần hết sức chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục và áp dụng chế tài xử lý vi phạm đủ mạnh để nâng cao nhận thức, hình thành ý thức tự giác, chủ động đề phòng và ứng phó với biến đổi khí hậu, sử dụng tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường của toàn hệ thống chính trị, các doanh nghiệp, cán bộ, đảng viên và nhân dân; hình thành các thiết chế văn hóa, đạo đức môi trường trong xã hội. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong các lĩnh vực này. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính, tăng cường và đa dạng hóa các nguồn lực cho ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Coi trọng hợp tác, hội nhập quốc tế. Trong nhiệm kỳ này, cần sớm xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch để thực hiện có hiệu quả các chiến lược đã được ban hành trên 3 lĩnh vực này, tập trung giải quyết những vấn đề mà nhân dân đang đặc biệt quan tâm như: Triều cường, nước biển dâng gây úng lụt, nhiễm mặn ở các tỉnh ven biển, nhất là khu vực đồng bằng Sông Cửu Long; nạn phá rừng, khai thác hủy hoại một số loại khoáng sản; phát triển thủy điện tràn lan, gây hậu quả xấu đến xã hội và môi trường; bỏ hoang hóa đất đai sau khi được giao quyền sử dụng cho các dự án đầu tư...

5- Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét kỹ và nhất trí cao với những nhận định, đánh giá và đề xuất nêu trong Báo cáo sơ kết 1 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay". Hội nghị thống nhất cho rằng, trong hơn một năm qua, toàn hệ thống chính trị đã nghiêm túc quán triệt và tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết; nhân dân đã nhiệt tình hưởng ứng tham gia xây dựng Đảng. Nhờ vậy, chúng ta đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng. Cán bộ, đảng viên và nhân dân đều cho rằng, việc ban hành và thực hiện Nghị quyết là rất cần thiết, đúng đắn, kịp thời nhằm ngăn chặn và từng bước đẩy lùi những tiêu cực, suy thoái trong Đảng, giữ vững bản chất cách mạng của Đảng, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh. Qua đây chúng ta cũng có thêm kinh nghiệm trong việc chỉ đạo thực hiện công tác xây dựng Đảng nói chung, trong chỉ đạo việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình nói riêng.

Trung ương yêu cầu phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục lãnh đạo tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 với những bước đi vững chắc để có thể thực sự tạo được chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng Đảng. Trước mắt, tập trung xây dựng và thực hiện thật tốt, có kết quả cụ thể các chương trình, kế hoạch sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, khắc phục những hạn chế, yếu kém đã được chỉ ra trong đợt sinh hoạt chính trị vừa qua. Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình cần tiếp tục được thực hiện một cách nghiêm túc gắn với kiểm điểm công tác hằng năm. Việc thực hiện các nhóm giải pháp khác phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ theo đúng Kế hoạch số 08-KH/TW của Bộ Chính trị, gắn với tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện những điều đảng viên không được làm; gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, tăng cường công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế.

Trung ương cũng đã xem xét các Báo cáo công tác kiểm tra của Đảng năm 2012; công tác tài chính Đảng năm 2012; công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị từ sau Hội nghị Trung ương 6 đến nay. Đồng thời yêu cầu Ban cán sự đảng Chính phủ khẩn trương chuẩn bị Đề án cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công để trình Trung ương xem xét, quyết định vào thời gian thích hợp. Ngoài những quan điểm, định hướng chính sách, biện pháp đã được xác định tại Kết luận của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI, cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc Kết luận của Hội nghị Trung ương lần này; đẩy mạnh việc nghiên cứu, tổng kết một cách cơ bản, sâu sắc, toàn diện các mặt để có một hệ thống các chính sách, biện pháp cải cách cơ bản chế độ tiền lương. Chú trọng một số giải pháp có tính đột phá, nhất là đột phá trong cải cách hành chính, tinh giản biên chế và tạo nguồn lực tài chính bảo đảm cho tính khả thi của Đề án.

Về xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược: Trên cơ sở Tờ trình và các báo cáo của Bộ Chính trị, Trung ương đã cho ý kiến về nguyên tắc, tiêu chí, phương pháp lựa chọn nhân sự đưa vào quy hoạch; về số lượng cho mỗi chức danh; về cơ cấu độ tuổi, giới tính, thành phần xuất thân và phương án nhân sự giới thiệu vào quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước nhiệm kỳ 2016 - 2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo. Đây là một dịp tổng rà soát lại đội ngũ cán bộ, cho chúng ta một cái nhìn tổng thể về nguồn cán bộ và là cơ sở quan trọng để xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược. Ngay sau Hội nghị này, Bộ Chính trị sẽ nghiêm túc tiếp thu ý kiến của Trung ương để hoàn thiện, ban hành quy hoạch; đồng thời bám sát những quan điểm, nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo của Đề án đã được Hội nghị Trung ương 6 khóa XI thông qua và Kế hoạch số 10 của Bộ Chính trị để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện quy hoạch, từng bước đưa công tác cán bộ ở Trung ương đi vào nền nếp, chủ động hơn, chính xác hơn.

Tại Hội nghị lần này, Ban Chấp hành Trung ương đã bầu 2 đồng chí bổ sung vào Bộ Chính trị và 1 đồng chí bổ sung vào Ban Bí thư khóa XI. Đề nghị mỗi đồng chí hãy nỗ lực hết mình hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vẻ vang nhưng rất nặng nề mà Trung ương giao phó.

Thưa các đồng chí,
 

Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã hoàn thành một khối lượng lớn công việc. Trung ương đã thống nhất cao ban hành nhiều nghị quyết, kết luận quan trọng. Tất cả các quyết định này đều liên quan chặt chẽ với nhau, có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.

Trách nhiệm của chúng ta sau Hội nghị này là phải triển khai thực hiện có kết quả các nghị quyết và kết luận của Trung ương vừa thông qua, coi đây là khâu mấu chốt quyết định trong việc biến nghị quyết thành hiện thực. Ở đây đòi hỏi chẳng những phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, mà còn phải có phương pháp làm việc khoa học, chặt chẽ. Bởi vì cùng một lúc chúng ta phải làm rất nhiều việc, việc nào cũng quan trọng, cấp bách. Nếu không có cái nhìn tổng thể, bao quát thì dễ chỉ thấy việc này, bỏ sót việc khác.

Tình hình chung của đất nước bên cạnh mặt thuận lợi cơ bản cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế - xã hội 4 tháng đầu năm 2013 tuy có những mặt chuyển biến tích cực, đúng hướng, nhất là trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, nhưng vẫn chưa vững chắc, còn nhiều khó khăn. Thu chi ngân sách đạt thấp; sản xuất công nghiệp tăng chậm so với cùng kỳ; số doanh nghiệp bị giải thể hoặc ngừng hoạt động vẫn còn lớn; sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp bị ảnh hưởng bởi thời tiết xấu và dịch bệnh. Việc làm, thu nhập của người lao động, an sinh xã hội còn nhiều vấn đề phải giải quyết. Trong khi đó, tình hình thế giới và khu vực vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, đặt ra những thách thức mới cho sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đang tìm mọi cách chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, ra sức kích động, chia rẽ nội bộ ta, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân. Vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần nêu cao ý chí của người cách mạng chân chính, tinh thần trách nhiệm trước Đảng và nhân dân, tăng cường đoàn kết thống nhất, phát huy hơn nữa vai trò cá nhân, cùng với cấp ủy và chính quyền, lãnh đạo và tổ chức thực hiện thật tốt các nghị quyết, kết luận, quyết định của Hội nghị Trung ương lần này cùng các nghị quyết khác của Đảng, Quốc hội và Chính phủ; bảo đảm hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 2013.

Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố bế mạc Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Chúc các đồng chí mạnh khỏe, hạnh phúc, hoàn thành xuất sắc trọng trách trước Đảng, trước nhân dân và đất nước.

Xin trân trọng cảm ơn”./.

Nguồn: TTXVN.
_______________________


Phát hiện của cư dân mạng: 
1- Nguyen Xuan Lien Chẳng nghe thấy tiếng Hoàng Sa, Trường Sa với Biển Đông nào. Đúng là Biển Đông không có gì mới.
2- Ha Le Điều mà người dân quan tâm nhất hiện nay - Sửa Đổi Hiến Pháp - lại là điều cụ Tổng nói ngắn nhất: chỉ 485 chữ. Mà thực ra hầu hết trong 485 chữ đó chỉ là màu mè hoa lá, điều cụ ấy nói chỉ gói gọn trong 3 câu ngắn ngủi này: "So với bản dự thảo được công bố, đã có rất nhiều ý kiến của nhân dân được tiếp thu, tập trung vào nhiều vấn đề quan trọng. Đối với những vấn đề mới, nhạy cảm, còn ý kiến khác nhau, Trung ương đã dành nhiều thời gian thảo luận, CHO Ý KIẾN CHỈ ĐẠO định hướng lựa chọn, tiếp thu, giải trình. Đối với các quan điểm sai trái, những luận điệu tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch, Trung ương kiên quyết phê phán, bác bỏ."
Không thấy "kinh tế thị trường định hướng XHCN" và "Tổ quốc XHCN" nữa rồi. OK anh Trọng, anh đã từ bỏ được CNHX, thật là bứt phá ngoạn mục. Nếu anh không căm thù Intarnet như anh nói: "kịp thời ngăn chặn, đấu tranh với các thông tin xấu, độc hại, nhất là qua mạng Internet", thì có lẽ nước ta sắp thành Mianma thứ hai rồi.

Dù rằng uy tín của anh quá thấp, nhưng dù sao cũng hoan hô anh đã bỏ được CNXH, dù chỉ trên lời nói.

4- Nặc danh: Không thấy chThành công tốt đẹp.
5 - Chưa bao giờ sự yếu kém của hệ thống quyền lực ĐCS Việt Nam lại thể hiện rõ như lúc này. Ngay cả cụm từ then chốt nhất “Đảng lãnh đạo” cũng chỉ là hình thức và quá khứ. Một tổng bí thư sau cuộc bỏ phiếu nhận ra rằng mình thực ra chẳng có quyền lực gì trong tay, cũng giống như Đảng có đột nhiên biến mất vào một ngày đẹp trời cũng chẳng ảnh hưởng đến nồi cơm nhà ai. Quyền lực không chính danh, không thực chất thì chỉ là một quyền lực ma ảo, khi tới gần sẽ thấy nguyên hình là một đám bụi không khí, thổi nhẹ một cái là tan biến.

6- Đảng bí mật họp, bí mật kết thúc, sau 5 giờ mới ra thông báo về kết quả hội nghị TW7. Chỉ ít phút sau đã có những bài tổng kết hay như thế này chứng tỏ lòng ân không yên. Người dân không hề thờ ơ với vận mệnh đất nước. Sự yếu kém toàn diện của Đảng dẫn tới yếu kém toàn bộ hệ thống chính tri của đất nước. Qua hội nghị này nhân dân đã thấy rõ sự thất bại của Đảng, nguyên nhân chính bộ phận không nhỏ và lợi ích nhóm năm ngay trong BCHTWW và BCT của Đảng.

7- Đối với các quan điểm sai trái, những luận điệu tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch, Trung ương kiên quyết phê phán, bác bỏ. Trung ương giao Đảng đoàn Quốc hội cùng với Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp, tiếp tục quán triệt đầy đủ và sâu sắc hơn nữa... "
Ông Trọng chỉ nên nói quan điểm khác, ông không được nói quan điểm sai trái. Quan điểm của ông đã đúng chưa? Lấy gì để kiểm chứng và khẳng định điều đó? Ông đừng hồ đồ, cho mình là giỏi, là hơn thiên hạ...

8- Một đảng cầm quyền mà không thể giải quyết được những đại vấn đề của nội bộ mình , những mưu thuẩn đã trở thành đối kháng trong nội bộ của mình , tần suất dày đặc nhắc đế sự mất còn của mình trong các văn kiện và nghị quyết thì làm sao mà còn đủ sức , còn đủ tầm , còn đủ uy tín mà cầm quyền và giải quyết được vô vàn công việc trọng đại hiện nay của quốc gia . Một người làm cha trong một gia đình mà hủ bại , bất tài , yếu kém toàn diện , vợ con khinh ghét thì làm sao làm được chủ hộ , để giải quyết được mọi việc của gia đình đang trong thời kỳ quá khó khăn . Sự vật vần xoay đã định sẵn , qua thời thịnh vượng ắt sẽ dẫn đến thời suy vong đó là quy luật của tạo hoá .Có sinh thì có tử . Những vấn đề quá nghiêm trọng ngày nay của đảng cầm quyền và của đất nước xảy ra liên tục ngoài ý muốn trong nhiều năm trở lại đây mà không có kẻ thù bên ngoài nào gây ra cả thì đúng là hợp quy luật của tư nhiên mà không ai tránh khỏi .


-->đọc tiếp...

Thứ Tư, 8 tháng 5, 2013

THUYẾT TRÌNH: ĐÀN XÃ TẮC THĂNG LONG CÓ ĐÁNG ĐƯỢC BẢO TỒN KHÔNG?



Để tham khảo các ý kiến xung quanh chủ đề của buổi thuyết trình, xin mời xem các ý kiến:
 
- TS. Vũ Thế Khanh (Tổng giám đốc Liên hiệp UIA), http://vtc.vn/394-373692/phong-su-kham-pha/long-mach-quoc-gia-nam-o-dan-xa-tac.htm

- TS Trịnh Hòa Bình (Viện Xã hội học) Đàn Xã Tắc và cầu vượt đều là văn hóa - http://khampha.vn/khoa-hoc/dan-xa-tac-va-cau-vuot-deu-la-van-hoa-c7a78264.html
- ông Trần Đình Thành, chuyên gia Cục Di sản văn hóa- http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2013/04/bao-ton-nguyen-ven-dan-xa-tac-la-rat-kho-1/
 
- ông Phan Đăng Long, Phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo thành ủy Hà Nội-
” Có thực tế là, các di tích khi khai quật xong mà để nằm dưới lòng đất thì còn an toàn hơn lộ thiên… Đàn Xã Tắc thì bây giờ đã được khoanh vùng, lấp lại và giữ nguyên vị trí đó, trồng cây và làm đường tránh hai bên… như Đàn Xã Tắc khu vực chính của Đàn có giá trị nhất là vị trí chúng ta đã quây lại và làm vườn hoa trên đó để bảo tồn nguyên trạng… Hiện nay thì chỉ là cách lấp đất phủ lên và giữ nguyên hiện trạng như vậy, không xây dưng gì trên đó nữa, còn vẫn phải đảm bảo giao thông, sinh hoạt… Việc làm cầu vượt chỉ trong phạm vi được phép, tránh hoàn toàn vị trí đã khoanh vùng.”
” Có hai vấn đề đặt ra là quan điểm bảo tồn và phát triển, phải kết hợp trong thực tế của nó, không phải vì bảo tồn di sản mà anh bất chấp tất cả. Như giờ toàn bộ dân ở xung quanh đó làm sao có thể di dời hết họ đi để bảo tồn di tích.
Thứ hai, trong cuộc sống, các di sản của quá khứ bị mất đi rồi cuộc sống mới chèn lập lên trên đó là tất yếu của phát triển, quy luật khách quan. Cái gì cũng bảo tồn hết thì không còn đất cho sự phát triển mới.”
http://baodatviet.vn/van-hoa/goc-nhin-van-hoa/201304/Cau-vuot-dan-Xa-Tac-phai-tranh-vung-di-tich-quoc-gia-2345027/
- ông Nguyễn Hoàng Long - Phó trưởng Ban tuyên giáo thành ủy Hà Nội
- Có thể nói con đường vành đai 1 dứt khoát không thể không có. Một đô thị phát triển phải có đường vành đai. Tại Trung Quốc hiện có 6 con đường vành đai khép kín, nên giao thông của họ rất thoáng.
Vành đai 1 nằm trong phạm trù quy hoạch rất quan trọng, chính vì vậy thành phố đã giao cho Ban QLDATTĐ của thành phố tìm mọi cách để làm thông được vành đai 1, giải quyết các nút tắc cho giao thông đô thị.
Quan điểm của thành phố là bảo tồn tất cả giá trị văn hóa truyền thống. Nhưng nếu có phải hi sinh một chút gì đấy của cha ông để cho con cháu sau này, để tiếp tục phát triển cũng giống như di tích Hoàng Thành thì cũng phải làm.
Tuy nhiên, chúng ta lại có những giải pháp để bảo tồn, có hiện vật, có video, có hình ảnh, có tuyên truyền để thế hệ tương lai hiểu rõ về lịch sử, trân trọng quá khứ.
http://baodatviet.vn/van-hoa/goc-nhin-van-hoa/201304/Cuc-di-sanHa-Noi-phai-de-xuat-bao-ve-dan-Xa-Tac-2345699/

Ông Nguyễn Hoàng Long, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội nói: "Thành ủy, thành phố luôn lắng nghe tất cả ý kiến, góp ý của người dân, các chuyên gia. Nhưng các chuyên gia, các nhà khoa học nếu muốn góp ý thì tìm đến các cơ quan đại diện của thành phố như Sở VHTT&DL, Sở GTVT, bộ phận tiếp dân của thành phố... các nhà khoa học phải đề xuất thành phố phải làm gì, nên làm gì chứ thành phố không thể tìm đến các nhà khoa học!" http://www.baodatviet.vn/van-hoa/goc-nhin-van-hoa/201304/Ha-Noi-mac-dan-Xa-Tac-va-chuyen-cu-cai-khong-nghe-2345957/
- Ông Phan Đình Tân, phát ngôn bộ Văn Hóa-Thể thao và Du lịch
Tôi chưa nói đến vấn đề tâm linh. Nhưng thái độ của người ứng xử có văn hóa là không phủ nhận lịch sử, không nên và không bao giờ được phủ nhận khi chưa hiểu rõ về nó. Cần phải có thái độ trân trọng đối với những di sản văn hóa mà bao đời nay thế hệ cha ông đã để lại.
Bộ và Cục Di sản văn hoá đã có các văn bản thể hiện nội dung trong đó. Tuy nhiên trong văn bản ngày 27/12, là căn cứ để Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội dẫn chiếu, theo đó lan can phải trùng với bó vỉa đảo giao thông là chỉ giới khu vực I của di tích.
Nghĩa là nó chỉ đến tới chỉ giới của khu vực I, khu vực lõi. Theo Luật di sản văn hoá, khu vực lõi (khu vực I) là khu vực không được xâm hại.
Cũng theo Luật Di sản văn hoá, khu vực II, III là khu vực có khả năng được điều chỉnh. Hơn nữa, xây cầu không vì động cơ của cá nhân ai, mà nó phục vụ lợi ích của quốc gia, lợi ích của thủ đô thì cũng cần phải cân nhắc phương án hài hòa.
 
Phải nói lại là: Bộ không cho phá Đàn Xã Tắc và không ai có quyền làm chuyện đó. Bộ rất tuân thủ Luật di sản văn hoá. Đây không phải là vấn đề mới, di tích Đàn Xã Tắc đã được nói đến cách đây mấy năm, được đặt lên bàn Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Thành ủy và Ủy ban TP HN để xem xét cân nhắc từ lâu.
 
Để đưa ra phương án này, phải được các Bộ, Ngành xem xét cân nhắc rất kỹ.
 
Theo phương án này, lan can cũng chỉ chạm đến các chỉ giới khu vực I, mặt vượt lên trên thì cũng nên cân nhắc chứ không thể nói Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho phá đàn Xã Tắc, mà vẫn bảo vệ, bảo tồn đấy chứ.
 
Khu vực đó được tính từ khu vực lõi, nơi phát tích các hố đào đó ra trung tâm đàn Xã Tắc đó để xác định khu vực cần bảo vệ.
 
Thì phải dựa vào khu vực phát tích nhiều hố đào nhất (?!). Trong điều kiện chưa đủ khả năng để khai quật, nghiên cứu thì cũng chỉ có thể tính tương đối.
 
Cũng chưa chắc chắn khu vực phát tích nhiều hố đào đã là trung tâm của đàn Xã Tắc.
http://baodatviet.vn/van-hoa/goc-nhin-van-hoa/201304/Bo-Van-hoa-khong-cho-pha-dan-Xa-Tac-2345252/

Nguồn: FB Nguyễn Hồng Kiên.
-->đọc tiếp...

Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2013

Cổ tục Việt Nam: CHƠI TẾT MÙNG BA THÁNG BA và BÁNH TRÔI BÁNH CHAY

Chơi Tết mồng ba tháng ba là “phong tục cổ của An Nam từ xưa” 
Trần Thị Băng Thanh 

Nhân dân ta từ rất xa xưa có tục ăn tết Mồng ba tháng ba. Trong ngày tết ấy người dân không nhóm lửa, chỉ ăn đồ nguội, vì thế Tết mồng ba tháng ba còn gọi là “Tết hàn thực” (Tết ăn đồ nguội). Ngày nay tục lệ ấy vẫn thịnh hành. Giải thích về tục lệ này, nhiều người đều cho là bắt nguồn từ Trung Quốc, gắn với câu chuyện về cái chết thương tâm của Giới Chi Thôi. 

Tích truyện kể rằng Tấn Văn Công trong những ngày gian khổ mưu cầu sự nghiệp bá vương, có lúc bị đói, Giới Chi Thôi đã cắt thịt đùi mình dâng ông ăn. Sau khi thành công, khen thưởng, Tấn văn Công quên Giới Chi Thôi, Giới buồn hận bỏ đi. Sau Văn Công nhớ ra triệu vời nhưng Giới không đến, trốn vào rừng. Tìm gọi mãi không được, Tấn Văn Công sai đốt rừng để Giới phải chạy ra; nhưng Giới Chi Thôi ôm cây chịu chết cháy chứ nhất định không tha thứ cho vị quân chủ mà Giới cho là vô tình. Tấn Văn Công sửa lỗi, nhưng lỗi lại chồng thêm lỗi nên hối hận, từ đó sai lệnh cấm lửa trong ngày này (mồng 3 thấng 3) để tưởng nhớ người bề tôi trung thành mà ông vì vô tâm đã bỏ quên. Cho đến ngày nay, chắc chắn chúng ta cũng đinh ninh nguồn gốc của ngày tết này là như thế. 

Nhưng cách đây đúng 720 năm, Trần Nhân Tông (1258 – 1308) đã nói rõ đó là “phong tục cổ của An Nam từ xưa”. Ông khẳng định điều đó trong một bài thơ kèm theo mâm bánh biếu sứ giả nhà Nguyên Trương Hiển Khanh (tên là Lập Đạo) sang Việt nam năm 1292. Bài thơ như sau:

                                    Giá chi vũ bãi thí xuân sam,
                                    Huống trị kim triêu tam nguyệt tam.
                                    Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bính,
                                    Tòng lai phong tục cựu An Nam.
                                    (Múa giá chi rồi, thử áo xuân
                                    Hôm nay Hàn thực, buổi thanh thần
                                    Bánh rau tinh khiết đầy mâm ngọc
                                    Phong tục An Nam theo cổ nhân.)
                                                Biếu Trương Hiển Khanh bánh xuân
                                                                                    (Trần Lê Văn dịch)

Bài thơ giọng điệu trang nhã, vừa rất ân cần với khách vừa ý tứ sâu xa. 

Trước hết hãy nói về Trương Hiển Khanh. Người Việt nam chắc ai cũng nhớ, vào năm 1288 nước ta vừa “đại phá” cuộc xâm lược của nhà Nguyên lần thứ ba. Vua Nguyên (Hốt Tất Liệt) vốn rất hận, đã tập trung lực lượng chuẩn bị đánh lần thứ tư vào năm 1294. Trương Hiển Khanh là Thượng thư bộ Lễ của Nguyên triều sang Việt Nam có nhiệm vụ “dụ” vua Trần phải thực tâm thần phục, sang triều kiến vua Nguyên và chịu làm theo mọi điều kiện nhà Nguyên áp đặt, nếu không thiên triều sẽ “trừng phạt”. Có thể Trương Hiển Khanh cũng còn một nhiệm vụ nữa là quan sát xem nước Việt sau năm năm với hai cuộc chiến khốc liệt, thế và lực ra sao. Vua tôi nhà Trần hiểu rất rõ điiều đó, cho nên cuộc tiếp sứ lần này thực chất là một cuộc đấu tranh ngoại giao gai góc chứ không phải là cuộc thăm hỏi xã giao. Nhưng Trần Nhân tông hết sức chủ động, nhà vua chủ trương “hóa giải” tình hình đó, trước hết với vị sứ thần có địa vị cao trong Nguyên triều và chắc chắn có học vấn. Vua tiếp sứ giả ở Điện Tập hiền với phong cách rất thân mật, chủ tâm theo phong tục An Nam: đặt tiệc mời toàn hải sản, trong lúc trò chuyện thỉnh thoảng lại mời ăn trầu, thậm chí còn mời vào trong trướng “ngồi xuống đất”. Trong cả chuỗi sự kiện tiếp đãi với tinh thần khẳng định bản lĩnh dân tộc đó, vua Nhân Tông trong ngày tết Mồng ba tháng Ba đã biếu Trương Hiển Khanh một mâm bánh với bài thơ trên. Các vua nhà Trần là những người có học, chắc chắn nhà vua biết rõ câu chuyện Giới Chi Thôi, nhưng với căn cứ gì vua Nhân Tông khẳng định đó là “phong tục cổ An Nam từ trước tới nay”? Trần Nhân Tông không ghi chú rõ, nhưng gần đây tìm hiểu ý tứ của bài thơ này, chúng tôi đã thấy một căn cứ. Nguyên là theo sách Kinh Sở tuế thời ký thì ngày thứ 105 trong tiết đông, thường có mưa to gió lớn, gọi là tiết Hàn thực, người ta cấm lửa trong 3 ngày; Lời chú của sách này nói: Theo lịch thì tiết ấy vào khoảng trước thanh minh 2 ngày, cách ngày đông chí 106 ngày. Một sách “biệt lục” của Lưu Hướng cũng nói tiết Hàn thực có từ đời Chu; tiết này được gắn với truyện Giới Chi Thôi là từ thời Hậu Hán. Cũng sách này còn ghi người bản địa “thổ nhân” trong ngày 3 tháng ba còn ra bến sông, thả chén chỗ sông quanh vui uống rượu. Như vậy có thể nói ngày 3 tháng ba là một lễ hội của cư dân nông nghiệp phía nam, từ vùng Kinh Sở trở xuống (mà Việt Nam ngày nay xa xưa cũng là một trong Bách Việt. Bách Việt khác Hán tộc). Vì thế Nhân Tông mới nhấn mạnh đây là “phong tục cổ của An Nam”. Cũng có thể còn thêm một căn cứ nữa là nếu cứ theo tích Giới Chi Thôi thì tết mồng ba tháng ba là một cái tết buồn, nhưng trái lại với Việt Nam đây là một lễ hội vui, có múa hát, có mặc áo mới và ăn một thứ bánh có rau, tinh khiết như “hồng ngọc” mà vua gọi là “bánh xuân”. Bài thơ hai mươi tám chữ tặng Trương Hiển Khanh của Trần Nhân Tông quả là có một chiều sâu tư tưởng, một vẻ đẹp nhân văn rất đáng để hậu thế chiêm ngưỡng và suy ngẫm. 

Sau những động thái trong cuộc tiếp sứ của vua tôi nhà Trần, Nguyên sứ Trương Hiển Khanh đã không thể tuyên dụ được những chỉ dụ của vua Nguyên trong cuộc đối thoại mà đành viết lại thành văn bản trao sau. Và lúc đó thì “thiên sứ” đã lên đường về nước. Quả là sau khi tiếp xúc với Trần Nhân Tông, Trương Hiển Khanh đã có một cách nhìn, cách nghĩ khác về An Nam. Khi về, ông đã viết trong một bài ký: “Vua An Nam tiếp chuyện vui vẻ luôn luôn làm thơ tặng thiên sứ. Lập Đạo tức thì làm thơ đáp lại. Tiệc gần xong, mời Lập Đạo vào trong trướng, đều ngồi trên đất”. Với quan sát của Lập Đạo bây giờ “An Nam là nước nhỏ, nhưng có văn chương, không thể nói bừa họ là ếch ngồi đáy giếng”. Và ông thể hiện suy nghĩ đó trong một bài thơ với nhiều cảm tình:
.
                                                Dao vọng thương yên toả mộ hà,
                                                Thị triều nhân viễn cách yên hoa.
                                                Cô hư đình viện vô đa sở,
                                                Thịnh mậu viên lâm chỉ nhất gia.
                                                Nam chú hùng tân Thiên Hán thuỷ,
                                                Đông khai cao thụ mộc miên hoa.
                                                An Nam tuy tiểu văn chương tại,
                                                Vị khả khinh đàm tỉnh để oa.
.
Bản dịch An Nam chí lược:
.
                                                Ngắm cảnh chiều hôm khói mịt mờ,
                                                Xa nơi thành thị đỡ huyên hoa.
                                                Quạnh hiu đình viện không nhiều sở,
                                                Tươi tốt vườn cây chỉ một nhà.
                                                Thiên Hán bến Nam tuôn mạch nước,
                                                Mộc miên cây lớn trổ cành hoa.
                                                An Nam tuy nhỏ văn chương thịnh,
                                                “Ếch giếng”, khuyên đừng chế giễu ngoa.
.
Thực ra những ngày tết lễ, những phong tục tốt đẹp được hình thành là sáng tạo văn hóa của nhân loại. Nếu người ta thấy hay, thấy đẹp thì học theo, cũng chẳng có điều gì phải ngần ngại; cũng như giới trẻ ngày nay đã rất thích ngày Tết tình yêu 14 – 2, hay mọi người đều rất thích tục tặng quà cho con trẻ trong Đêm Chúa giáng sinh 25 – 12 ... Có điều tìm đến gốc gác một phong tục để biết thêm vẻ đẹp nhân văn của nó cũng là một việc rất nên biết. Huống nữa trả lại cái ý nghĩa sâu xa vui vẻ và đầy sức sống như thế cho ngày tết mồng 3 tháng Ba cổ truyền của người Việt lại càng là một việc rất nên làm.
_______________
Những tư liệu viết bài này lấy từ các sách: Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Khoa học xã hội in năm 1985 và An Nam chí lược, bản dịch, Tài liệu tham khảo của Thư viện văn học và Bản dịch, NXB Thuận Hóa – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, in năm 2002, Từ nguyên, Thương vụ ấn thư quán (Trung Quốc) xuất bản năm 1947.

* Tác giả Trần Thị Băng Thanh là PGS.TS, công tác tại Viện Văn học, đã nghỉ hưu. 

TS. Nguyễn Hồng Kiên giảng về Bánh trôi - Bánh Chay: 

TẾT BÁNH TRÔI BÁNH CHAY CỦA NGƯỜI VIỆT ĐÃ VÀ ĐANG ĐƯỢC TRÍCH DẪN 1 QUAN ĐIỂM rất SAI LẦM THEO TẾT HÀN THỰC CỦA TQ
Để giải thích ngọn ngành hơi mất thì giờ.


Nhưng RÕ RÀNG LÀ Tết/tiết mồng Ba tháng Ba người Việt gọi là "Tết Bánh trôi-bánh chay". 

Chỉ với món bánh làm từ GẠO (lúa nước- thứ mà vùng Trung nguyên của người Hán không trồng được) đủ cho thấy tổ tiên người Việt không bị ảnh hưởng từ cái tết Hàn thực của TQ.
Đã nhiều lần nhà cháu giải thích về các TẾT (tiết khí) trong 1 năm của âm lịch (lịch Trăng) Việt. Đó là các tiết khí của phương Nam, gắn với văn minh lúa nước.

Cái mà bây giờ mọi người hay trích dẫn là chuyện ảnh hưởng NGƯỢC rất muộn, từ Trung Hoa. Họ du nhập của phương Nam, rồi SÁNG TÁC lại truyền thuyết cho LY KỲ thôi.

Mặt khác, sau 1000 năm Bắc thuộc, nhiều phong tục của người Việt, hoặc bị khoác áo Hán hóa, hoặc các cụ ẨN vào đó để duy trì, tồn tại cái cốt lõi văn hóa mình.

Có thể đọc: "Trong lễ hội Trôi nước ngày mồng 3 tháng 3, ngày giỗ Nam phương Thánh mẫu cũng như ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba, ngày hội đền Hát Môn thờ hai Bà Trưng ngày mồng 5 tháng 3 dân làng nào cũng làm một mâm bánh Trôi gồm 100 bánh làm lễ vật dâng cúng. Sau khi hạ lễ, ông Trưởng lão trước gọi là Già làng về sau gọi là Tiên Chỉ đem 50 bánh đặt trên bè sen thả trôi sông và 50 bánh đem đặt lên núi để nhắc nhở đến sự tích “Bọc điều trăm họ thai chung”, năm mươi con theo cha xuống vùng sông nước, năm mươi con theo mẹ Âu lên vùng rừng núi chia nhau mà trị theo lời dặn dò của Bố Lạc." 


SO SÁNH LUÔN KHẬP KHIỄNG. Nhưng nói các tiết/Tết của lịch Trăng Việt là theo TQ thì CHẢ KHÁC GÌ NÓI "RÉT NÀNG BÂN" CŨNG CÓ GỐC TQ ;)


Thêm nữa:

Đã nhiều lần nhà cháu giải thích về các TẾT (tiết khí) trong 1 năm của âm lịch (lịch Trăng) Việ là các TIẾT của KHÍ HẬU, THỜI TIẾT phương Nam, gắn với văn minh lúa nước, CHẢ MẤY LIÊN QUAN ĐẾN NÔNG NGHIỆP KHÔ của vùng bờ Bắc sông Hoàng

Người Hoa Hạ du nhập nhiều văn hóa/văn minh của phương Nam, rồi SÁNG TÁC, bịa thêm truyền thuyết cho LY KỲ và nhằm mục đích CƯỚP ĐOẠT VĂN HÓA thôi.

BI ZỜ, ĐẾ CÓ THỂ SÁNG TỎ ĐÔI CHÚT VỀ CHUYỆN NÀY, NHÀ CHÁU XIN ĐẶT RA 3 CÂU HỎI:


1- BÁNH TRÔI BÁNH CHAY LÀM BẰNG GÌ Ạ?


Bằng bột nếp (có pha tí Tẻ) đúng không ạ? 


Văn hóa/văn minh lúa nước cho dù vưỡn chưa được thống nhất cho lắm, nhưng chắc chắn là KHÔNG PHẢI CỦA NGƯỜI HOA HẠ. 


Vậy thì món CHÍNH (Main dish) của Tết mồng Ba tháng Ba, tức thị là CÁI LÀM NÊN cái Tết này, đâu liên quan gì đến cái ông Giới Tử Thôi bên Tàu VÀ CẢ CÁI 'THẾ GIỚI TRUNG HOA' (Le Monde de Chine) ?

Có nhẽ lại phải nhắc lại chuyện Thày Vưng GIẢNG cho chúng cháu: Khổng tử từng mắng vợ là HOANG, khi DÁM nấu cơm đến 2-3 lần trong 1 tháng. TỨC LÀ GẠO LÚA NƯỚC CHÍNH XÁC LÀ ngọc thực!


Có bác sẽ chất vấn là ở Việt Nam còn có món Bánh Trôi Tàu?


Để so sánh và tìm ra lý do gọi tên món 'chè' Tàu đó với món bánh trôi nước của Việt, xin NHƯỜNG cho các bác SÀNH ăn và các chuyên gia ẩm thực (nhà cháu không 'hảo ngọt').


Riêng nhà cháu nghĩ đó KHÔNG PHẢI LÀ món ăn của người Hoa Hạ. Vả chăng, không chỉ tên gọi, món đó được người Hoa ở Việt Nam chế biến, ăn và bán quanh năm, KHÔNG CHỈ TRONG 1 NGÀY, như người Việt.

2- CÁI GÌ LÀ CỐT LÕI CỦA TẾT HÀN THỰC?


Nhà cháu chưa tra được món CHÍNH (Main dish) của phong tục này ở Tàu là gì. Mà mỗi ngày lễ/tết trên khắp thế giới đều thường gắn với một món đặc biệt nào đấy (ăn ngỗng dịp Giáng sinh chẳng hạn). 


Cái cốt lõi của tết Hàn thực Trung Hoa là để tưởng nhớ một ông bị chết cháy nên kiêng không nổi lửa, chỉ ăn đồ nguội, nấu từ hôm trước.


Chuyện đó là NGĂN CẢN ĂN chứ đâu KHUYẾN KHÍCH ĂN (các cụ răng đen vưỡn bảo là ĂN Tết cơ mà?). Ngay điều đó cũng cho thấy RÕ cái vỏ khá muộn của giai thoại về tết này của Trung Hoa. 


Hơn nữa, mọi sự kiện văn hóa/văn minh đều BẮT NGUỒN từ cuộc sống của cả một cộng đồng, thật khó tin chuyện lại VÌ 1 cá nhân mà có thể hình thành 1 tập quán.


Vả chăng, từ bé nhà cháu vưỡn thấy bà, mẹ (rồi hôm nay thấy bà dì) VƯỠN NỔI LỬA NẤU BÁNH TRÔI-BÁNH CHAY ĐÚNG TRONG NGÀY 3/3. (Chả biết nhà các bác có nấu từ đêm hôm qua ?) Nghĩa là cái CẦN THỰC HIỆN của tết Hàn Thực 'à la Chinois' đâu có tồn tại trong Tết bánh Trôi-bánh Chay của người Việt?

3- VẬY THÌ TẾT BÁNH TRÔI-BÁNH CHAY LÀ 'TƯỢNG' CHO CÁI GÌ ?


Vầng, truyền thuyết/giai thoại hay nguồn gốc của Tết mồng Ba tháng Ba là gi?
Thật khó truy nguyên! 


Vì như đã nói, trong lịch sử nhiều lần các chính thể Phong kiến Quân chủ Việt đã CHỦ ĐỘNG du nhập văn hóa/văn minh Trung Hoa, để chứng tỏ VÔ TỐN (không thua kém). Đó là 1 lớp MỜ, 1 lớp VỎ VĂN HÓA cần được (nhưng không dễ) bóc tách.


Theo nhà cháu, suốt 1000 năm Bắc thuộc, dù không bị đồng hóa, hay chính là để có thể bảo lưu HỒN CỐT, các thế hệ Tổ tiên người Việt có lẽ đã buộc phải MƯỢN TẠM 1 lớp VỎ kiểu Trung Hoa ('à la Chinois') để CHE ĐẬY, ẩn thân. Đó lại là 1 lớp CHỒNG MỜ quá lâu. Những thế hệ sau dần quên mất chuyện THẬT đương nhiên trong thế hệ trước.


Như đã thưa ở stt trước NHÀ CHÁU NHÌN THẤY ẢNH XẠ HUYỀN THOẠI TRĂM TRỨNG trong đĩa bánh chay và bát bánh trôi. Nhưng để RÀNH RỌT thì chỉ mình nhà cháu không thể kham nổi (vì ham chơi hơn)

BỊ MỌI NGƯỜI 'TRUY BỨC' QUÁ, NHÀ CHÁU CHỈ XIN THƯA LẠI THÊM TÍ NHƯ VẬY THÔI Ạ! Nhà cháu đi ăn bánh trôi-bánh chay đây !
 
TẾT BÁNH TRÔI BÁNH CHAY CỦA NGƯỜI VIỆT ĐÃ VÀ ĐANG ĐƯỢC TRÍCH DẪN 1 QUAN ĐIỂM rất SAI LẦM THEO TẾT HÀN THỰC CỦA TQ. Để giải thích ngọn ngành hơi mất thì giờ. Nhưng RÕ RÀNG LÀ Tết/tiết mồng Ba tháng Ba người Việt gọi là "Tết Bánh trôi-bánh chay".  Chỉ với món bánh làm từ GẠO (lúa nước- thứ mà vùng Trung nguyên của người Hán không trồng được) đủ cho thấy tổ tiên người Việt không bị ảnh hưởng từ cái tết Hàn thực của TQ. Đã nhiều lần nhà cháu giải thích về các TẾT (tiết khí) trong 1 năm của âm lịch (lịch Trăng) Việt. Đó là các tiết khí của phương Nam, gắn với văn minh lúa nước. Cái mà bây giờ mọi người hay trích dẫn là chuyện ảnh hưởng NGƯỢC rất muộn, từ Trung Hoa. Họ du nhập của phương Nam, rồi SÁNG TÁC lại truyền thuyết cho LY KỲ thôi. Mặt khác, sau 1000 năm Bắc thuộc, nhiều phong tục của người Việt, hoặc bị khoác áo Hán hóa, hoặc các cụ ẨN vào đó để duy trì, tồn tại cái cốt lõi văn hóa mình. Có thể đọc: "Trong lễ hội Trôi nước ngày mồng 3 tháng 3, ngày giỗ Nam phương Thánh mẫu cũng như ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba, ngày hội đền Hát Môn thờ hai Bà Trưng ngày mồng 5 tháng 3 dân làng nào cũng làm một mâm bánh Trôi gồm 100 bánh làm lễ vật dâng cúng. Sau khi hạ lễ, ông Trưởng lão trước gọi là Già làng về sau gọi là Tiên Chỉ đem 50 bánh đặt trên bè sen thả trôi sông và 50 bánh đem đặt lên núi để nhắc nhở đến sự tích “Bọc điều trăm họ thai chung”, năm mươi con theo cha xuống vùng sông nước, năm mươi con theo mẹ Âu lên vùng rừng núi chia nhau mà trị theo lời dặn dò của Bố Lạc." - http://khoahochuyenbi.com/forum/showthread.php/22796-M%E1%BB%93ng-3-th%C3%A1ng-3-%C3%A2m-l%E1%BB%8Bch-huy%E1%BB%81n-t%C3%ADch-m%E1%BA%ABu-th%C6%B0%E1%BB%A3ng-ng%C3%A0n SO SÁNH LUÔN KHẬP KHIỄNG. Nhưng nói các tiết/Tết của lịch Trăng Việt là theo TQ thì CHẢ KHÁC GÌ NÓI "RÉT NÀNG BÂN" CŨNG CÓ GỐC TQ ;)
 
-->đọc tiếp...