Blogger Widgets
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Văn Tuấn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Văn Tuấn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

GS. NGUYỄN VĂN TUẤN LÊN TIẾNG VỀ TỶ LỆ ĐẠI BIỂU THÔNG QUA HIẾN PHÁP

Tỉ lệ đại biểu thông qua hiến pháp và tỉ lệ thi tốt nghiệp THPT
Nguyễn Văn Tuấn

Tôi tự nhủ rằng không nên ảo tưởng về tư duy độc lập của đại biểu Quốc hội. Họ phải bầu (nhấn nút) theo chỉ thị thôi. Do đó, không ngạc nhiên khi thấy hiến pháp được thông qua gần như tuyệt đối. Nhưng tôi ngạc nhiên về tính toán của báo … Nhân Dân!

Nhân Dân cho biết “Ngày 28-11, Quốc hội biểu quyết thông qua Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 với 486/488 đại biểu tán thành, chiếm 97,59%”. Báo Vietnamnet cũng trích con số 97.6% đó. Nhưng nhìn kĩ thì 486 và 488 chỉ cách biệt có 2, thì làm sao mà 97% được. Tôi thử tính lại thì tỉ lệ đúng phải là 99.6%. Chín mươi chín chấm sáu phần trăm. Các nhà báo chẳng lẽ không biết tính phần trăm?

Nhưng chúng ta thử đặt ra một tình huống khác: nếu Quốc hội có 488 đại biểu, và nếu họ được yêu cầu bỏ phiếu thông qua hiến pháp 100 lần, thì tỉ lệ sẽ dao động bao nhiêu? Chỉ cần một vài tính toán tôi có câu trả lời: trong 100 lần biểu quyết, thì sẽ có 95 lần biểu quyết với tỉ lệ thông qua dao động từ 98.5% đến 99.9%. Nói chung là gần 100%. Trước năm 1975 ở miền Nam, tôi nhớ chưa có lần nào Quốc hội thông qua với tỉ lệ cao như thế.

Thời gian gần đây người ta đã bàn về thi cử trung học, và có nhiều ý kiến cho rằng nếu tỉ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông đều trên 95% thì nên bỏ kì thi đó đi. Với tính toán trên, tôi nghĩ mấy người có ý kiến này chắc cũng đồng ý là trong tương lai Quốc hội không nên tổ chức thông qua hiến pháp làm gì cho mất thì giờ và mất công của đại biểu.

http://nhandan.com.vn/chinhtri/item/21769402-quoc-hoi-thong-qua-du-thao-sua-doi-hien-phap-nam-1992.html
Nguồn: FB Nguyễn Tuấn
Việt Ông: 
Phải chăng hệ thống tính toán của Quốc hội đã bị lổi?

- 486 phiếu tán thành trên 488 đại biểu thì tỉ lệ phải là 99.59%. Nhưng bảng kết quả lại ghi là 97.59 % (?).

- 2 đại biểu không bỏ phiếu thì tỉ lệ 0.40% là đúng rồi.

Phải chăng là lổi hay là điều gì ẩn chứa đàng sau kết quả tính toán sai này?


Ý kiến các cử tri độc giả: 

Máy tính hay máy đếm của Quốc Hội bị sai??? 
486/488 = 97,59%??? 

Tham gia 488 người = 97,99% -> Đủ 100% = 498 người. (Vậy vắng hoặc không tham gia 10 người) 
Tán thành 486 người. Vậy 486/498 = 97,59%

Em thấy có vấn đề thì phải,trong 36s các đại biểu tham gia từ 477 đạ biểu , đến khi kết thúc lại 488ĐB.Trong 36s máy chủ cộng thêm vào 11 đại biểu!?Nếu đúng quy định thì phải nhập đúng tổng số các đại biểu trước khi biểu quyết chứ!Em học ngắn chỉ nghĩ đươc có vậy,có gì sai mong mọi người thông cảm!

Ngay máy đếm như ta thấy đã là thiếu trung thực, làm gì có trong 36 giáy mà số người dư họp tăng từ 477 lên 488, số người không tán thành 3 xuống còn 0.
Biểu quyết kiểu này thì không muốn tán thành cũng phải tán thành, vì nếu không tán thành sẽ bị phát hiện ngay. Nếu biểu quyết bằng phiếu kín thì chưa chắc đã thông qua được HP 

 
-->đọc tiếp...

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

GS. Nguyễn Văn Tuấn: TỰ VẤN, TỰ TRỌNG, TỰ DO, TỰ ĐỔI MỚI


Tự vấn, tự trọng, tự do, tự đổi mới
Nguyễn Văn Tuấn 

Lời dẫn của tác giả: Xin giới thiệu các bạn một cuộc trò chuyện với phóng viên trên Sài Gòn Tiếp Thị nhân ngày 2/9/1945. Bài phỏng vấn này được phóng viên biến thành một bài viết dưới tựa đề “Tự vấn, tự trọng, tự do, tự đổi mới”. Vì không đủ “đất” nên một số đoạn phải cắt bỏ trên báo. Thời đại internet có cái hay là độc giả có thể đọc nguyên bản (dưới đây) bên cạnh bản in, và có thể rút ra vài nhận xét. NVT
 
SGTT: Thưa GS, cảm xúc của GS thế nào khi nghĩ về ngày độc lập 2/9 của đất nước?

NVT: Tôi nhìn ngày 2/9/1945 như là một ngày Việt Nam giành quyền độc lập, không còn lệ thuộc ngoại bang. Có lẽ ấn tượng nhất với tôi là bản tuyên ngôn độc lập do cụ Hồ Chí Minh đọc và trích từ câu đầu trong bản tuyên ngôn độc lập của Mĩ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Đó là những câu phát ngôn rất đẹp và lí tưởng. Do đó, có thể nói rằng ngày 2/9 mở đầu cho một lí tưởng nhân văn và cao đẹp cho Việt Nam. Còn những gì xảy ra sau đó thì cần phải bàn thêm.

SGTT: Ngày Độc lập có gắn với kỷ niệm nào của Giáo sư không?

NVT: Tôi sinh sau ngày 2/9/1945 và ở trong Nam nên không có kỉ niệm nào với ngày đó cả. Tuy nhiên, Ba tôi lúc sinh tiền thì nhắc đến ngày này như là một bước ngoặc trong đời.

SGTT: Chúng ta có độc lập gần 70 năm qua, nhưng về mặt phát triển chúng ta vẫn lệ thuộc nhiều thứ của nước ngoài. (Đơn cử, trong lĩnh vực y tế, mỗi năm dân ta phải mất rất nhiều tiền để đi các nước chữa bệnh). GS chia sẻ gì về câu chuyện này?

NVT: Thật ra, hầu như bất cứ lĩnh vực nào liên quan đến khoa học, công nghệ, kĩ thuật, chúng ta đều phụ thuộc vào nước ngoài. Nhìn chung, nhiều kĩ nghệ ở Việt Nam chủ yếu là gia công, chứ không phải thực sự sản xuất và cũng không có nghiên cứu khoa học. Chúng ta còn lệ thuộc nước ngoài về khoa học. Khoảng 80% các công trình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam là do hợp tác với hay qua hỗ trợ từ nước ngoài.

Tôi nghĩ rằng trình độ của chúng ta (người Việt) chưa theo kịp với những vấn đề mà phát triển kinh tế - xã hội đặt ra. Điểm xuất phát của chúng ta là một nền văn minh và văn hóa nông nghiệp, và khi trong quá trình hội nhập thế giới được định hình bởi nền văn minh công nghiệp, thì nảy sinh rất nhiều vấn đề. Có nhiều sự chênh lệch giữa nhu cầu phát triển đặt ra và khả năng đáp ứng của nội lực Việt Nam. Điều này có thể giải thích tại sao các công trình xây dựng, công trình nghiên cứu khoa học của Việt Nam không đạt chất lượng cao.

Ngoài ra, sự phát triển kinh tế và xã hội Việt Nam còn thiếu tính đồng bộ và thiếu tính hệ thống. Đây đó chúng ta có những chuyên gia có thực tài, nhưng nhìn chung họ chỉ là những cá nhân đơn lẻ, không đủ để định hình một nền khoa học. Ví dụ như Việt Nam có những bác sĩ phẫu thuật không thua kém gì so với Singapore, nhưng chúng ta không có một hệ thống hỗ trợ hậu phẫu để lấy được niềm tin tưởng của bệnh nhân. Có thể chúng ta chỉ giỏi về kĩ thuật, mà kĩ thuật thì chỉ là một khâu trong nhiều khâu quan trọng. Chính vì thế mà một số bệnh nhân chưa cảm thấy an tâm và tin tưởng vào hệ thống y tế của Việt Nam.

SGTT: Khi giành độc lập, VN là một khối thống nhất, triệu con tim một ý chí quật cường? GS có thể giải mã gì về hiện tượng này dưới con mắt của một nhà nghiên cứu?

NVT: Tôi nhớ đến câu “Mùa thu rồi ngày 23 / ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến”. Đó lời hiệu triệu chống ngoại xâm. Do đó, tôi nghĩ bởi đơn giản là lúc đó ai cũng muốn đánh đuổi ngoại xâm để có được độc lập, tự do, và bình đẳng. Người Việt Nam có thể bất đồng với nhau về nhiều vấn đề, nhưng rất đồng lòng trong việc đánh đuổi ngoại xâm. Ngày nay cũng thế, khi có đe dọa hay nguy cơ từ ngoại xâm thì người dân đồng loạt đứng lên.

Nhưng lịch sử cũng chỉ ra rằng trong thời bình người Việt Nam không đoàn kết như trong thời chiến tranh chống ngoại xâm. Đất nước đã thống nhất gần 40 năm, nhưng lòng người hình như chưa thống nhất. Bất công xã hội ngày càng nhân rộng. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng rộng hơn. Người Việt trong và ngoài nước chưa thật sự đồng lòng. Tất cả những yếu tố đó chỉ làm suy yếu cộng đồng dân tộc, và làm cho Việt Nam chưa phát triển đúng với tiềm năng của dân tộc.

SGTT: Theo GS, vì sao một dân tộc từng ngẩn cao đầu trong những cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để giữ nước, nhưng lại là một dân tộc quẩn quanh với mệt nhoài ở những chặng hoà bình tìm kế bứt phá vươn lên?

NVT: Trong lịch sử cận đại, chưa bao giờ nước ta có một thời gian hoà bình lâu dài như hiện nay. Thế mà cho đến nay, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia nghèo, có thời gian nằm trong nhóm các nước nghèo nhất thế giới. Câu hỏi đặt ra là tại sao, và đã có nhiều câu trả lời cũng như cách tiếp cận câu hỏi đó. Tôi nghĩ lí do gần mà chúng ta có thể nhận ra được là chúng ta đã dành quá nhiều sức lực và tài nguyên cho chiến tranh. Đối với các nước lớn, chiến tranh là một cuộc chơi, hay thậm chí là một thương vụ; nếu không có lợi thì họ rút lui, họ không mấy quan tâm đến thắng hay thua theo nghĩa kinh điển. Nhưng đối với nước nghèo như Việt Nam thì khi chiến tranh xảy ra là dốc toàn lực toàn tâm để giành thắng lợi. Trong cuộc chiến vừa qua, có trên 50 ngàn quân nhân Mĩ tử vong, nhưng Việt Nam thì trên 2 triệu người tử vong. Sau hơn 20 năm chiến tranh thì xã hội có dấu hiệu mệt mỏi cũng là điều không khó hiểu.

Nhưng tại sao có những nước, như Hàn Quốc và Nhật, họ lại vươn lên rất nhanh sau chiến tranh, còn Việt Nam thì vẫn còn nghèo. Có ba giả thuyết chính được đề ra để giải thích sự khác biệt về mức độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các quốc gia trên thế giới: địa lí / khí hậu, văn hóa, và thể chế. Có học giả (như Montesquieu chẳng hạn) cho rằng ở những nước nhiệt đới người dân thiếu óc tò mò, hay bị mệt mỏi, dễ mắc bệnh, và năng suất lao động thấp, nên mức độ phát triển không bằng các nước ôn đới. Giả thuyết thứ hai cho rằng yếu tố văn hóa có ảnh hưởng đến phát triển, và đã có khá nhiều học giả cho rằng một số nét về văn hoá Việt Nam là những rào cản cho phát triển kinh tế trong thời đại toàn cầu hoá. Nhưng một giả thuyết mới nhất cho rằng một thể chế thiếu dung hợp là một yếu tố làm cho đất nước nghèo yếu. Một thể thiếu dung hợp như Phi Luật Tân, trong đó các nhóm lợi ích và đại gia chiếm đoạt tài nguyên quốc gia thì đất nước không thể nào giàu được. Có thể nói rằng cả ba giả thuyết trên đây đều có thể giải thích tại sao Việt Nam nghèo. Chúng ta không thay đổi được địa lí, nhưng chúng ta có thể thay đổi văn hoá và tạo ra một thể chế dung hợp hơn nữa, một thể chế mà trong đó mọi thành viên có cơ hội đóng góp chứ không phải chỉ vài nhóm lợi ích chiếm đoạt tài nguyên và lũng đoạn quốc gia.

SGTT: Thách thức lớn nhất đối với việc phát triển đất nước hiện nay, là gì, thưa GS?

NVT: Tôi nghĩ mối đe dọa lớn nhất đến phát triển đất nước hiện nay là môi sinh và đạo đức xã hội. Nước ta là nước nhỏ (về diện tích), mật độ dân số khá cao, và môi trường sống đang xuống cấp nghiêm trọng. Sự phá hủy môi sinh ở Việt Nam rất ư là kinh khủng, và nếu không ngăn chận hay khắc phục kịp thời, thì chúng ta sẽ không có gì để lại cho các thế hệ tiếp nối. Kinh nghiệm của các nước như China cho thấy phát triển kinh tế nhanh nhưng phá hủy môi trường sẽ làm cho sự phát triển trả giá rất đắt về lâu dài.

SGTT: Theo GS, trong giai đoạn hiện nay, cách thức nào hạn chế những thức thức đó để đưa dân tộc đi lên?

NVT: Tôi nghĩ chúng ta nên quay lại với một lí tưởng quan trọng của ngày 2/9/1945: đó là tự do. Hai chữ này có thể hiểu rất khác nhau giữa các cá nhân, nhưng ở đây, tôi muốn hiểu tự do theo nghĩa tự do tinh thần, tự do chính trị, và tự do kinh tế. Tự do tinh thần đồng nghĩa với tự do lựa chọn niềm tin, triết lí, và không lệ thuộc vào người khác. Tự do chính trị là tiền đề của một thể chế dân chủ. Cần phải đảm bảo quyền tự do ngôn luận và quyền tranh luận của xã hội và công dân đối với những hoạt động đó. Tự do kinh tế là động lực và cũng là nguyên khí của phát triển kinh tế xã hội. Do đó, tôi rất tâm đắc với nhận xét của Amartya Sen (nhà kinh tế học gốc Ấn Độ được trao giải thưởng Nobel kinh tế) rằng “phát triển như là tự do”.

SGTT: Những trở trăn của GS với ngành y ở Việt Nam là gì? Làm thế nào để có một ngành y mạnh và theo triết lý phụng sự người dân?

NVT: Tôi nghĩ tình trạng y tế và bệnh tật ở nước ta thật đáng lo ngại. Trước đây, chúng tôi đã từng lên tiếng rằng số người chết vì tai nạn giao thông làm nhức nhối xã hội, nhưng nguyên nhân tử vong trong các bệnh viêm phổi, viêm họng, viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp, tiêu chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn, cúm, sốt rét còn cao hơn nhiều. Mẫu số chung của các bệnh này là tình trạng thiếu dinh dưỡng vì nghèo khó, là môi trường bị ô nhiễm trầm trọng.

Nền y tế của VN càng ngày càng bị thương mại hóa. Nhiều người nhìn thấy ngành y là một môi trường kinh doanh để kiếm tiền nhanh, hơn là một thiên chức chăm sóc sức khỏe cho người dân. Y đức đang là một vấn đề nhức nhối, và đang làm rẻ rúng ngành y và suy giảm uy tín của những người làm trong ngành y.

Chúng tôi từng đề nghị và xin nhắc lại: cần phải tăng đầu tư xây dựng bệnh viện, xây dựng các cơ sở y tế ở nông thôn và phổ cập bảo hiểm y tế để người nghèo có thể tiếp cận dịch vụ y tế với phụ phí thấp. Nên có chính sách miễn phí khám bệnh và phí nhập viện cho người dân nghèo hoặc cận nghèo.

SGTT: Triết lý phát triển nào cho Việt Nam là phù hợp với bối cảnh hiện nay, thưa thầy?

NVT: Người ta hay nói đến triết lý phát triển, còn tôi thì suy nghĩ đến nguyên lý phát triển. Tôi nghĩ đến nguyên lý “phát triển bền vững” sẽ là cách phù hợp nhất để Việt Nam đi lên trong bối cảnh hiện nay. Phát triển đi đôi với huỷ hoại môi sinh, hay phát triển mà chỉ lệ thuộc nước ngoài về khoa học và công nghệ, thì không thể xem là phát triển lâu dài được. Do đó, phát triển bền vững có nghĩa là chú trọng chất lượng cuộc sống cho người dân, và đồng thời tăng nội lực dân tộc.

SGTT: Câu chuyện giáo dục truyền thống ở những nước phát triển thường được kể lại cho dân họ như thế nào, thưa GS?

NVT: Có danh nhân từng nói đại khái rằng biết được sự thật sẽ làm cho chúng ta tự do. Sự thật có thể không phải lúc nào cũng đẹp, nhưng vẫn là bài học để chúng ta vươn lên. Ở Úc, tôi thấy họ lấy cuộc chiến mà Úc thất trận ra dạy cho học sinh tiểu học và trung học. Họ không mặc cảm vì thất trận. Nhưng họ cũng không hạ thấp đối phương (là cựu thù). Trong sách giáo khoa sử của Úc, tôi không thấy những hận thù trong đó, tất cả sự kiện đều được trình bày bằng một văn phong khách quan và không cảm tính. Tôi được biết ở Nhật, người ta cũng dạy học sinh rằng Nhật từng là nước chiến bại.

SGTT: Làm thế nào để những người trẻ ý thức được rằng, để có độc lập dân tộc ta phải trả bằng máu, vậy đưa đất nước đi lên là trách nhiệm của những người con người hiện tại?

NVT: Tôi cho rằng, trong việc giáo dục lòng yêu nước, cần phải truyền đạt cho giới trẻ nằm lòng rằng: làm thế nào để không cần đổ xương máu mà vẫn có độc lập. Chuyện quá khứ là quá khứ, nhưng chuyện quan trọng hơn là hiện tại: Việt Nam đang đứng trước một chặng đường đầy nguy cơ: kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học đều suy thoái, nền tảng đạo đức xã hội lung lay và trên nhiều mặt ngày càng lệ thuộc vào nước láng giềng phương Bắc. Để tránh nguy cơ đó, tôi nghĩ mỗi chúng ta phải tự mình đổi mới. Mỗi chúng ta, chứ không ai khác, có nghĩa vụ đưa đất nước đi lên.

SGTT: Xin cảm ơn GS!
-->đọc tiếp...

Thứ Bảy, 20 tháng 7, 2013

GIÁO SƯ Y HỌC NGUYỄN VĂN TUẤN MỔ XẺ ĐỘI NGŨ TÁC GIA VĂN HỌC VIỆT NAM

Nhân đọc "Từ điển Văn học Việt Nam"
Việt Nam có bao nhiêu tác gia?
Nguyễn Văn Tuấn 

Tác giả bài viết: GS. Y khoa Nguyễn Văn Tuấn (trái)
Gặp lại một bài cũ (đã đăng trên Tạp chí Việt hơn 10 năm trước), nhưng chưa có dịp giới thiệu các bạn trong nước. Đọc lại vẫn thấy có ích. Nhân đọc "Từ điển Văn học Việt Nam", tôi thử đếm xem VN có bao nhiêu tác gia, họ sống thọ bao lâu, quê quán ở đâu, v.v. Nhìn sơ qua con số thì thấy dân Thanh Nghệ Tĩnh hơn hẳn Tràng An!
Gần đây, có một số ý kiến cho rằng nền văn học Việt Nam thời Trung đại, nhất là từ đầu thế kỉ 18 trở về trước, rất yếu kém, vì sáng tác của các tác gia thời đó còn rất khiêm tốn (xem, chẳng hạn như, Tạp san Việt với chủ đề "Văn học Việt Nam bước vào thế kỉ 21" [1]). Tuy nhiên, phần lớn những nhận xét như thế thường mang tính định chất và có khi dựa vào quan điểm chủ quan của tác giả. Thực vậy, cho đến nay, chưa có một phân tích định lượng một cách có hệ thống nào để cho thấy nhận xét trên có cơ sở hay không. Một câu hỏi hiển nhiên là tại sao mức độ sáng tác của những người làm văn nghệ thời trước lại kém. Ngoài vài nguyên nhân khả dĩ liên quan đến đề tài sáng tác, một giả thuyết có thể đặt ra ngay là số lượng người làm nghề sáng tác trong các thế kỉ trước chưa nhiều.
Giả thuyết đó nảy sinh ra vài câu hỏi khác mang tính định lượng mà tôi hằng thắc mắc là: có bao nhiêu tác gia Việt Nam trong thời kỳ lập quốc cho tới nay, thân thế họ ra sao, có bao nhiêu người là nữ, họ đã sáng tác và để lại được bao nhiêu tác phẩm lớn, v.v.. Thật là khó mà trả lời một cách chính xác cho những câu hỏi như thế, vì một phần nó nằm ngoài chuyên môn của tôi, và một phần sử liệu về văn học của nước ta chưa được soạn thảo một cách có hệ thống. Nhưng may thay, mới đây, soạn giả Lại Nguyên Ân cùng với Bùi Văn Trọng Cường đã sưu tầm tiểu sử và sáng tác của một số tác gia tiêu biểu từ nguồn gốc đến thế kỉ 19, và hệ thống hoá trong cuốn sách Từ điển Văn học Việt Nam (TĐVHVN) [2]. Những tác gia này được xem như là những người đã đặt nền móng cho nền văn học nước nhà trước thế kỉ 20. Thực ra, TĐVHVN không những trình bày tiểu sử của các tác gia, mà còn có nhiều thông tin liên hệ đến các tác phẩm cùng các hiện tượng đáng chú ý của tiến trình văn học dân tộc. Sách còn có những mục từ giải thích các thể loại thơ, văn, hát.
Vì thấy sách cung cấp những thông tin có thể dùng để trả lời những tò mò trên của tôi, nên tôi đã thử làm một vài phân tích thống kê về các dữ kiện trên [3]. Bài viết này chỉ nhằm tóm lại kết quả của phân tích đó nhằm cống hiến cho độc giả có một cái nhìn định lượng, nhưng tổng quan, về các tác gia và tác phẩm Việt Nam thời trước thế kỉ 20.
Số lượng
Theo TĐVHVN, tính từ đầu thế kỉ 1 đến cuối thế kỉ 19, Việt Nam có 276 tác gia [4]. Số lượng tác gia tăng dần theo thời gian. Trong những thế kỉ 2 đến 12, mỗi thế kỉ chỉ thấy có 1 đến 5 tác gia. Vào thế kỉ 13 đến thế kỉ 17, có 111 tác gia (tức là 40% trong tổng số tác gia). Sau thời kỳ này, số lượng tác gia tăng lên đến 71 người vào thế kỉ 18 và 78 người vào thế kỉ 19; như vậy, chỉ trong hai thế kỉ này số lượng tác gia chiếm gần 54% tổng số kể từ ngày khởi lập.
Tính theo niên đại, người mở đầu cho nền văn học Việt Nam là quan Thái thú người Trung Hoa, Sĩ Nhiếp, sinh năm 137 và mất năm 226. Sĩ Nhiếp có công truyền bá việc học chữ Hán và do đó Nho học vào nước ta vào thời Bắc thuộc. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu sử học có khi không đồng ý về ý nghĩa việc làm của ông. Có người cho là ông việc làm của ông là nhằm vào việc duy trì nền đô hộ của đế chế Hán, nên không được xét đến trong tiến trình lịch sử và văn hoá Việt Nam. Nhưng cũng có người suy tôn ông là "Nam bang học tổ", tức là "Ông tổ việc học ở nước Nam". Gần đây, tài liệu nghiên cứu của một số nhà nghiên cứu văn học ở Việt Nam cho thấy Sĩ Nhiếp là một ông quan cai trị tốt ("hương lại"), và việc làm của ông nên được ghi nhận như là một nghĩa cử cho nền văn học nước nhà.
Suốt từ thế kỉ 3 đến thế kỉ 6, sách không liệt kê một tác gia nào. Thế kỉ 7 có một tác gia, nguyên là một nhà sư, hiệu là Đại Thừa Đăng, không rõ tên thật cùng năm sinh, nhưng chỉ biết ông mất nào năm 601. Ông là một nhà sư đi chu du nhiều nơi, qua các nước Trung Hoa, Sư Tử (Sri Lanka ngày nay), Ấn Độ, v.v... và qua đó quen biết nhiều bạn bè trong Phật giáo. Một trong những người bạn thân của ông là Đạo Hy, một nhà sư Trung Hoa. Khi Đạo Hy qua đời, Đại Thừa Đăng có viết một bài thơ chữ Hán để khóc bạn có tựa đề là Điếu Đạo Hy. Theo giới nghiên cứu văn học Việt Nam, đây có thể là sáng tác văn học sớm nhất của người Việt mà hiện nay còn được biết.
Thế kỉ 8 và 9 có một tác gia tên là Khương Công Phụ, người gốc Thanh Hoá, không rõ năm sinh và năm qua đời, chỉ biết ông sống vào thời kỳ đất nước ta chịu sự cai trị của Nhà Đường (tức thế kỉ 8 và 9). Ông theo nho học, sang Trường An (kinh đô Nhà Đường) ứng thi và đỗ đầu khoa Hiền Lương Phương Chính năm Canh Thân (780) đời Đường Đức Tông. Sau này ông làm quan cho Tàu đến chức Gián nghị Đại phu, Đồng trung Thư môn Hạ bình chương. Về sau, ông bị truất phế làm Biệt giá ở Tuyên Châu, đến đời Thuận Tông lại được bổ làm Thứ sử ở Cát Châu, rồi mang bệnh và chết tại Tuân Hoá, Khâm Châu; tại đây còn có đền thờ. Tác phẩm duy nhất của Khương Công Phụ là Bạch vân chiếu xuân hải phú (bài phú Mây trắng chiếu biển xuân) chữ Hán. Tác phẩm này được Lê Quý Đôn nhận xét là "lời văn đẹp đẽ". Đây là một trong số rất ít những tác phẩm thành văn vào loại xưa nhất của tác gia người Việt hiện còn giữ được.
Từ thế kỉ 10 đến thế kỉ 12, số lượng tác gia vẫn chưa nhiều: chỉ 13 người. Trong số này có Ngô Chân Lưu (tức Khuông Việt, 933 - 1011), Nguyễn Vạn Hạnh (? - 1018), vua Lý Thái Tổ (974 - 1028), Mai Trực (tức Viên Chiếu, 999 - 1091), Lý Thường Kiệt (1019 - 1105, Lý Trường (Mãn Giác, 1052 - 1096), Từ Lộ (Đạo Hạnh, ? - 1117), Lê Thị Ỷ Lan (? - 1117), Pháp Bảo (thế kỉ 12), Dương Không Lộ (? - 1119), Nguyễn Công Bật (sống vào thế kỉ 11 hay 12), vua Lý Nhân Tông (1066 - 1128), và Nguyễn Nguyên Ức (tức Viên Thông, 1080 - 1151).
Sau thời kỳ này, số lượng tác gia Việt Nam vượt lên con số 16 (thế kỉ 13), 21 người (thế kỉ 14), 36 người (thế kỉ 15), 19 người (thế kỉ 16), 19 người (thế kỉ 17). Trong thế kỉ 18, con số các tác gia tăng lên 71 người và đạt mức cao nhất vào thế kỉ 19 với 78 tác gia.
Giới tính
Trong số 276 tác gia, chỉ có 11 người là nữ. Những vị này là: Lê Thị Ỷ Lan, Ngô Chi Lan (? - 1401), Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748), Lê Ngọc Hân (1770 - 1799), Hồ Xuân Hương (Thế kỉ 18-19), Nguyễn Thị Hinh (tức Bà Huyện Thanh Quan, (Thế kỉ 19), Công chúa Nguyễn Tĩnh Hoà (1829 - 1882), Công chúa Nguyễn Vĩnh Trinh (1824 - 1892), Công chúa Nguyễn Trinh Thận (1826 - 1904), Nguyễn Nhược Thị Bích (1830 - 1909), và một nhà sư hiệu là Pháp Tính (? - 1701).
Trong danh sách nhỏ này, ngoài Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Thị Hinh, và Lê Ngọc Hân ra, các tác giả khác còn ít được biết đến trong công chúng. Ngô Chi Lan là một nhà thơ, nguyên quán ở làng Phù Lỗ, huyện Kim Hoa (nay là Kim Anh), tỉnh Phúc Yên. Có sách chép rằng bà là con nuôi của Nguyễn Thị Lộ (vợ lẽ của Nguyễn Trãi). Bà sống vào thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), thuở nhỏ thông minh, đọc nhiều, và khi trưởng thành có tiếng là người làm thơ hay. Bà thường được vua Lê Thánh Tông vời vào cung hầu thơ, và còn được phong chức Phù gia Học sĩ, tức chuyên lo chuyện lễ nghi, văn chương cho các cung nữ trong triều đình. Tác phẩm của Ngô Chi Lan còn sót lại cho đến thế kỉ 15 (nhưng nay đã thất lạc) là tập thơ chữ Hán Mai trang tập, gồm 7 bài thơ vịnh cảnh, vịnh sử. Bà được coi là một nhà thơ nữ đầu tiên có những đóng góp đáng kể cho nền văn học nước nhà thời xưa.
Lê Thị Ỷ Lan (không rõ tên thật) nguyên quán làng Thổ Lỗi, lộ Bắc Giang (nay là ngoại thành Hà Nội), nguyên phi của Lý Thánh Tông, và mẹ của Lý Nhân Tông. Theo truyền thuyết, khi vua Lý Thánh Tông kinh du qua làng Thổ Lỗi, các cô thôn nữ đang hái dâu tràn ra đường xem xe vua, nhưng chỉ riêng có một cô gái đứng bên gốc lan mà hát, không màn đến việc diện kiến nhà vua. Vua Lý Thái Tông cho là người có bản lĩnh, nên đưa về cung lập làm phu nhân, đặt tên Ỷ Lan (có nghĩa là "dựa gốc lan"). Một số sách vở và tài liệu cho thấy bà có tham gia vào việc triều chính, khuyên vua ban hành chính sách cấm giết trâu bò bừa bãi. Khi vua đi đánh giặc, bà là người đứng ra lo việc nội chính rất vững vàng. Bà là người sùng đạo Phật. Tác phẩm của bà để lại là một bài kệ ngắn luận bàn về hai phạm trù "sắc" và "không" trong đạo Phật.
Công chúa Nguyễn Tĩnh Hoà là con gái thứ 34 của vua Minh Mệnh, em ruột Tùng thiện vương Miên Thẩm và công chúa Mai Am Nguyễn Trinh Thận. Bà có năng khiếu thơ văn trong giới cung đình, và còn rành cả nhã nhạc. Bà còn để lại một tập thơ Huệ Phố thi tập, gồm 260 bài thơ tức cảnh, đề vịnh, cảm hoài. Thơ của bà được anh trai (Tùng thiện vương) khen là "lời gọn gàng, ý lưu loát, văn trôi chảy, điệu mạnh mẽ."
Chị của Nguyễn Tĩnh Hoà là Nguyễn Trinh Thận, con gái thứ 25 của vua Minh Mệnh. Bà học giỏi, đọc nhiều, và có tiếng là làm thơ vừa thanh, vừa khoẻ, tự nhiên mà trau chuốt. Tác phẩm bà còn để lại là Diệu liên tập, in hai lần vào năm 1867 và 1883. Tập thơ này gồm 227 bài thơ viết bằng chữ Hán, cũng chủ yếu và vịnh cảnh vật, sử, cảm tác, xướng hoạ, khóc anh chị em trong triều đình ...
Nguyễn Nhược Thị Bích (còn có tên là Nguyễn Thị Bích), nguyên quán ở Ninh Thuận (tức Bình Thuận ngày nay), từng được vời vào cung và được phong chức Thượng nghi viện sự, "tài nhân", "mỹ nhân", "quý nhân", "tiệp dư" dưới thời của vua Tự Đức. Bà là người dạy học cho Kiến Phúc và Đồng Khánh (khi hai người này chưa lên ngôi vua). Bà còn tham gia biên soạn sắc dụ cho bà Từ Dũ (tức mẹ của vua Tự Đức) và bà Trang Ý (vợ vua Tự Đức). Sáng tác đáng kể và còn lưu lại đời sau của Nguyễn Nhược Thị Bích là Hành thục ca, gồm 1018 câu lục bát, chữ Nôm, nội dung kể lại các sự kiện ở triều đình Huế từ khi người Pháp vào Việt Nam.
Bà Hương Chân (sống vào thế kỉ 17), phật danh là Pháp Tính, có thể là người soạn cuốn Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa, tức là Từ điển Hán Nôm đầu tiên ở nước ta. Thực ra, có bằng chứng cho thấy quyển này đã có từ đời Sĩ Nhiếp, nhưng mãi đến thế kỉ 17 mới được Pháp Tính chọn từ và sắp xếp lại cho có hệ thống như một cuốn từ điển.
Tuổi thọ
Trong số 188 tác gia có thể xác định được năm sinh và năm qua đời, tuổi thọ trung bình của 188 tác gia này là 62 tuổi. Khoảng 25% (trong số 188) tác gia có tuổi thọ dưới 50 tuổi, và 25% tác gia thọ trên 72 tuổi. Người có tuổi thọ ngắn nhất là Ngô Thì Ức, sinh năm 1709 và mất năm 1736, tức chỉ thọ 27 tuổi. Người có tuổi thọ cao nhất là Huỳnh Quỳ, sinh năm 1828 và mất năm 1926, tức thọ 98 tuổi. Huỳnh Quỳ, còn có danh hiệu là Tú Quỳ, là một nhà thơ sống vào đời vua Minh Mệnh, quê quán ở Quảng Nam, nhưng tổ tiên di cư từ Hà Tĩnh. Ông là tác gia của khoảng 300 đơn vị tác phẩm, gồm những bài văn tế và phú, và thơ vịnh thuộc loại trào lộng.
Điều tương đối thú vị là những tác gia nguyên quán ở Nghệ An, Huế, và Nam Định có tuổi thọ trung bình thấp hơn (khoảng 56-59 tuổi) những đồng nghiệp của họ thuộc các vùng khác của đất nước như Hà Nội (63 tuổi), Bắc Ninh (64), Hưng Yên (63), và Thanh Hoá (64).
Quê quán và quốc tịch
Phần lớn các tác gia có nguyên quán ngoài Bắc (166 người). Miền Trung có 75 tác gia, và miền Nam có 13 tác gia. Số còn lại không xác định được nguyên quán. Tuy đến từ nhiều vùng khác nhau trong nước, nhưng nguyên quán của phần đông các tác gia tập trung ở một số tỉnh như sau: ở miền Bắc có Hà Nội (34 người), Hải Dương (26), Bắc Ninh (25 người), Hà Tây (25), Nam Định (21), và Hưng Yên (13); ở miền Trung: Thanh Hoá (21), Nghệ An (17), Hà Tĩnh (13), và Huế (13); ở miền Nam: Gia Định (6).
Thực ra, nói là 276 "tác gia Việt Nam" cũng không hẳn chính xác, vì trong số này có 3 tác gia có quốc tịch nước ngoài: Girolarmo Majorica (1591 - 1656), Alexandre de Rhodes (1591 - 1660), và Sĩ Nhiếp (137 - 226).
Dòng họ
Trong số các tác gia, có tất cả 51 họ. Trong số này, họ Nguyễn chiếm đa số, với 80 (tức 29%) tác gia. Tiếp theo là các thường gặp phải là: Trần (19 tác gia, hay 7%), Lê (18 tác gia, hay 6.5%), Ngô (16 tác gia, hay 6%), Phạm (14 tác gia, hay 5.1%), Vũ (12 tác gia, hay 4.3%), Phan (10 tác gia, hay 3.6%), và Đặng (3.6%).
Một số tác gia xuất phát từ một dòng họ như họ Phan Huy có đến 4 người trong từ điển. Đứng đầu họ này là Phan Huy Ích (1751- 1822), con cả của Tiến sĩ Phan Huy Cận (1751 - 1822). Những người trong dòng họ Phan Huy khác là: Phan Huy Thực (1778 - 1844) và Phan Huy Chú (1782 - 1840), là hai con của Phan Huy Ích; và Phan Huy Vịnh (1800 - 1870), con của Phan Huy Thực.
Ngoài giòng họ Phan Huy, một họ khác có nhiều người nổi tiếng hơn là họ Ngô Thì. Người đứng đầu trong danh sách họ này là Ngô Thì Ức (1709 - 1736). Người thứ hai là Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780), con của Ngô Thì Ức. Ngô Thì Sĩ cũng là bố vợ của Phan Huy Ích. Người thứ ba và có lẽ là người nổi tiếng nhất trong họ này là Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803), con của Ngô Thì Sĩ. Em của Ngô Thì Nhậm là Ngô Thì Chí (1753 - 1788) và Ngô Thì Trí (1766 - ?) cũng là những danh sĩ nổi tiếng có tên trong Từ Điển. Ngoài ra, còn có Ngô Thì Hương (1774 - 1821) là con thứ của Ngô Thì Sĩ; Ngô Thì Du (1772 - 1840), cháu gọi Ngô Thì Sĩ bằng bác; và Ngô Thì Hiệu (1791 - 1830), không rõ quan hệ với các Ngô Thì Sĩ ra sao.
Trong các vị vua Việt Nam, có lẽ vua Minh Mệnh là người có nhiều con nhất, và họ cũng có mặt khá đông trong hàng ngũ tác gia. Trong nhóm con trai có Nguyễn Miên Thẩm (1819 - 1870, con thứ 10), Nguyễn Miên Trinh (1820 - 1897, con thứ 11), Nguyễn Miên Bửu (1820 - 1854, con thứ 12); và trong nhóm nữ, có Nguyễn Trinh Thận (con gái thứ 25) và em là Công chúa Nguyễn Tĩnh Hoà (con gái thứ 34) là những nhà thơ được chú ý.
Tất nhiên, sách không thể thiếu hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi, và hai cha con Nguyễn Hữu Hào và Nguyễn Hữu Dật, cũng là những tác gia nổi tiếng trong nền văn học cổ Việt Nam. Ngoài ra, trong gia phả của Nguyễn Du, ngoài ông ra, còn có Nguyễn Nghiễm (thân phụ, 1708 - 1775) và Nguyễn Hành (cháu gọi Nguyễn Du bằng chú, 1771 - 1824).
Nghề nghiệp
Trong tổng số tác gia, có 271 người có thể xác định nghề nghiệp. Và trong số 271 tác gia này, có đến 69% (hay 187) là quan chức. Phần còn lại là: nhà sư (7% người); nhà thơ ( trên dưới 7% người); vua, chúa (5%), và một số ngành nghề khác như nhà văn, nhà khảo cứu, tướng lãnh, thầy giáo, v.v.
Trong số các tác gia mà nghề nghiệp chính là tu sĩ gồm có Đại Thừa Đăng (? - 601), Ngô Chân Lưu (933 - 1011), Nguyễn Vạn Hạnh (? - 1018), Mai Trực (999 - 1091), Lý Trường, tức Mãn Giác (1052 - 1096), Pháp Bảo (? - 1111), Nguyễn Nguyên Ức (1080 - 1151), Dương Không Lộ (? - 1119), Trần Tung, tức Tuệ Trung Thượng sĩ (1230 - 1291), Đồng Kiên Cương (1284 - 1330), Thường Chiếu (? - 1203), Lý Đạo Tài (1254 - 1320), Pháp Tính (? - 1701), và Hương Hải Thiền sư (1769 - 1832).
Một số khác là linh mục như Philip Bỉnh (1759 – 1832), Alexandre de Rhodes, và Lữ Y Đoan (? – 1678). Trong nhóm sau này, ngoài tác gia nổi tiếng là Alexandre de Rhodes, hai tác gia Philip Bỉnh và Lữ Y Đoan rất ít được nhắc đến, tuy công của họ không phải là nhỏ. Linh mục Philip Bỉnh (không rõ họ), nguyên quán Hải Dương, theo dòng Tên, và khi dòng này bị Toà thánh La Mã bỏ rơi, ông đã bỏ sang sống ở Bồ Đào Nha và sau này chết ở đó. Về văn học, có thể nói Philip Bỉnh là tác gia đầu tiên để lại tác phẩm bằng chữ Quốc Ngữ. Ông là người viết cuốn Sách sổ sang chép các việc, Chuyện Anam Đàng Ngoài, và Chuyện Anam Đàng Trong. Lữ Y Đoan (không rõ họ), còn có tên là Louis Đoan, người quê Quảng Ngãi, thụ phong linh mục năm 1676, lúc đã ngoài 60 tuổi. Ông là tác giả của Sấm truyền ca (1670), một tập thơ lục bát viết bằng chữ Nôm, nhưng là một phóng tác 5 quyển đầu của Kinh Thánh.
Trong số 13 tác gia có gốc vua, chúa, có đến 6 người thuộc nhà Trần: Trần Thái Tông (1218 - 1277), Trần Thánh Tông (1240 - 1290), Trần Nhân Tông (1258 - 1308), Trần Anh Tông (1276 - 1320), Trần Minh Tông (1300 - 1357), và Trần Nghệ Tông (1321 - 1395). Đời Nhà Lý có hai vị vua là tác gia: Lý Thái Tổ (974 - 1028) và Lý Nhân Tông (1066 - 1128). Phần còn lại là các vị thuộc nhà Lê, nhà Nguyễn, và Chúa Trịnh: Lê Thánh Tông (1442 - 1497), Nguyễn Hồng Nhậm hay Tự Đức (1829 - 1883), Trịnh Doanh (1720 - 1767), và Trịnh Sâm (1737 - 1782).
Trong số các tướng lãnh kiêm tác gia gồm có: Lý Thường Kiệt (1019-1105), Trần Quốc Tuấn (1232 - 1300), Trần Quang Khải (1241 - 1291), Phạm Ngũ Lão (1256 - 1320), Nguyễn Hữu Dật (1604 - 1681), và Nguyễn Hữu Hào (1647 - 1718). Trong danh sách này, có lẽ hai người sau được ít người biết đến. Nguyễn Hữu Hào là con của Nguyễn Hữu Dật, người làng Gia Miêu, huyện Tăng Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Cả hai cha con đều là võ tướng Đàng Trong của chúa Nguyễn, và từng đánh thắng quân Trịnh nhiều lần. Về sáng tác, Nguyễn Hữu Hào viết nhiều hơn cha. Tác phẩm của Nguyễn Hữu Hào còn lưu lại [và chỉ tình cờ được phát hiện đầu thế kỉ 20] là truyện thơ nôm Song tinh truyện. Thực ra, đây chỉ là một bản diễn Nôm của truyện Định tình nhân của một tác giả người Trung Hoa. Điểm đáng chú ý của Song tin truyện là những diễn tả hồn nhiên về mối quan hệt thầm kín trong đời sống vợ chồng, một điều được xem là cấm kỵ thời đó. Nó cũng là một chứng tích về sự phát triển của văn học ở Đàng Trong.
Trong số các tác gia được xếp vào nhóm "Nhà thơ" và "Nhà văn", phần lớn là các nhà thơ (19 người), và chỉ có 4 người có thể cho là nhà văn. Trong nhóm nhà thơ "chuyên nghiệp" gồm có (xếp theo niên đại): Lê Cảnh Tuân (? – 1416), Lê Đức Mao (1462 – 1529), Ngô Chi Lan (thế kỉ 15), Ngô Thì Ức (1709 – 1736), Ngô Thế Lân (1726 - ?), Hồ Xuân Hương (? - 1801), Nguyễn Hành (1771 – 1824), Phạm Thái (1777 – 1813), Nguyễn Huy Hổ (1783 – 1841), Nguyễn Miên Thẩm (1819 – 1870), Nguyễn Miên Bửu (1820 – 1854), Nguyễn Miên Trinh (1820 – 1897), Huỳnh Quỳ (1828 – 1926), Nguyễn Văn Lạc (1842 – 1915), Trần Cao Vân (1866 – 1916), Trần Tế Xương (1870 – 1907), Nguyễn Hàng (thế kỉ 16), Bà Huyện Thanh Quan (tức Nguyễn Thị Hinh), và Vũ Quốc Trân (thế kỉ 19). Những người được liệt kê là nhà văn gồm có: Trần Thế Pháp (thế kỉ 14), Linh mục Lữ Y Đoan (? - 1678), Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898), và Nguyễn Văn Cẩm (tức Kỳ Đồng, 1875 - 1926). Cần phải nói thêm rằng, như thấy trong danh sách này, do không xác định được chính xác năm sinh và nghề nghiệp chính, nên có thể một số người không sống bằng nghề chính là văn chương, mà có thể là quan chức hay hưởng bổng lộc triều đình (nếu là người thuộc hoàng tộc). Có thể nói trong danh sách này, không một ai sống bằng nghề chữ nghĩa cả.
Tác phẩm
Trong suốt từ năm 1101 đến cuối thế kỉ 19, các tác gia Việt Nam đã sáng tác hay biên soạn được 132 tác phẩm [5]. Tuy nhiên, chỉ riêng thế kỉ 19, có đến 68 tác phẩm (tức 51%); trước đó, số lượng rất khiêm tốn, như thế kỉ 18 có 22 tác phẩm, thế kỉ 16 và 17 có 14 tác phẩm, và phần còn lại (28 tác phẩm) trong suốt từ thế kỉ 12 đến thế kỉ 15.
Trong số 132 tác phẩm này, có 63 (hay 48%) được viết bằng chữ Hán, phần còn lại là chữ Nôm (62 tác phẩm, hay khoảng 47%) và Quốc ngữ (7 tác phẩm, hay 5.3%). Phần lớn tác phẩm viết bằng chữ Nôm chỉ xuất hiện khá nhiều kể từ thế kỉ 16 trở đi. Chẳng hạn như trong thời gian hai thế kỉ 16 và 17, có 14 tác phẩm (tức 64%), nhưng 9 được viết bằng chữ Nôm; tỷ lệ này giảm xuống còn 41% trong thế kỉ 18, nhưng tăng lên 63% trong thế kỉ 19.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng văn học chữ Nôm đã xuất hiện từ thế kỉ 13 hoặc sớm hơn nữa. Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Chu Văn An … là những tác gia dùng chữ Nôm đầu tiên, nhưng sáng tác tác của họ không còn lại bao nhiêu. Tác phẩm chữ Nôm xưa nhất của Việt Nam còn tồn tại cho đến ngày nay là Quốc Âm Thi Tập (1442, đời Lê) của Nguyễn Trãi. Tác phẩm này gồm có 254 bài thơ, trong đó có những câu thơ 6 chữ xen lẫn 7 chữ khá phổ biến. Cũng trong thế kỉ 15, Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập là một thi phẩm khác còn tồn tại cho đến ngày nay. Thi phẩm này do vua Lê Thánh Tông và một số quan văn biên soạn. Sách gồm có 283 bài thơ, phần lớn được viết theo thể 7 và 8 chữ (thất ngôn bát cú), vịnh cảnh Tàu và Việt Nam, và ca ngợi triều đình.
Về các sáng tác bằng chữ Quốc Ngữ, trong thế kỉ 17, chỉ có một tác phẩm duy nhất, Phép giảng tám ngày (1651). Trong khi thế kỉ 18 vắng bóng tác phẩm Quốc Ngữ, thế kỉ 19 là giai đoạn "cực thịnh", với 6 tác phẩm được viết bằng chữ Quốc Ngữ: Sách sổ sang chép các việc (1822), Chuyện nước An Nam Đàng Ngoài chí Đàng Trong (1822), Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi 1876 (1881), Thầy Larazo Phiền (1887), và Đại Nam quốc âm tự vị (1895-1896). Trong phần này còn phải kể đến tờ báo Gia Định báo (1865 – 1909) và tạp chí Thông loại khoá trình (1888-1889), có ảnh hưởng lớn đến văn chương chữ Quốc ngữ trong thế kỉ 19, nhất là nhất là tờ Gia Định báo. Cả hai ấn phẩm đều do Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898) khởi xướng và làm chủ bút, riêng Gia Định báo cóthời do Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút.
Một vài nhận xét
Đi tìm nguồn gốc tác phẩm và tiểu sử tác gia là một việc làm khó khăn, đòi hỏi người biên soạn phải am tường lịch sử và có sự hiểu biết sâu sắc về văn học. Để soạn cuốn TĐVHVN, soạn giả đã tham khảo các nguồn tài liệu chính như sách Đại Việt thông sử, Nghệ văn chí, Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn; Văn tịch chú, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú; Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm; các tác phẩm nghiên cứu của Trần Văn Giáp, Đỗ Đức Hiểu, Trần Nghĩa; và các tạp chí nghiên cứu văn học, văn hoá, Hán nôm ... ở trong nước từ năm 1960 đến 1997. Qua cách viết và trình bày trong Từ điển, tôi cảm thấy soạn giả là những người cẩn thận và có một sự dè dặt cố hữu của người làm khoa học.
Phải nói ngay rằng cuốn Từ điển Văn học này không phải là một công trình hệ thống tất cả các tác gia và tác phẩm trước thế kỉ 20; nó chỉ là một tác phẩm mang tính giáo khoa (được ấn hành bởi Nhà xuất bản Giáo dục), mà đối tượng chủ yếu là sinh viên và học sinh. Vì thế, những tác gia và tác phẩm của họ được trình bày trong Từ điển này là kết quả của một sự lựa chọn có hệ thống, tức là soạn giả chỉ chọn những tác gia quen thuộc nhất mà thôi. Thực vậy, qua trao đổi cá nhân, nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc có cho tôi biết nếu căn cứ vào cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ 10 đến giữa thế kỉ 18 của tác giả Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, và Mai Cao Chương (Nhà xuất bản Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội, 1978), chỉ riêng đời Nhà Lý (thế kỉ 11) đã có hơn 40 nhà sư làm thơ; đời Nhà Trần và Hồ (thế kỉ 13-14), có hơn 60 tác giả ... Ngoài ra, theo cuốn Lược truyện các tác gia Việt Nam, Tập I, do Trần Văn Giáp chủ biên (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971), tổng cộng từ thế kỉ 11 đến cuối thế kỉ 19, có đến 735 tác gia sáng tác bằng chữ Hán và Nôm.
Tuy nhiên, dù các thông tin và dữ kiện trong TĐVHVN chưa đầy đủ, và có thể là chưa hoàn hảo, nhưng chúng cũng có thể cung cấp một bức tranh tổng quát về số lượng tác gia và tác phẩm thời trước thế kỉ 20 ở Việt Nam, nhất là những con số tương đối.
Nhưng dù không đầy đủ, một điều mà ai cũng có thể ghi nhận là số lượng tác gia Việt Nam, dù là 1000 người đi nữa, trong suốt 2000 năm lập quốc là một con số rất khiêm tốn. Thực ra, số lượng tác gia chỉ đông đảo kể từ thế kỉ 16 trở đi, chiếm khoảng 60% trong tổng số. Trong số này, phần đông là quan chức, vua chúa, tướng lãnh, và nhà sư . Ngay cả một số ít tuy mang danh hiệu là "Nhà thơ", nhưng trong thực tế chưa chắc là những người sống bằng nghề làm thơ, mà có thể là những quan chức hay ẩn sĩ. Chẳng hạn như ba anh em Nguyễn Miên Thẩm, Nguyễn Miên Trinh, và Nguyễn Miên Bửu, tuy danh hiệu là Nhà thơ, nhưng họ sống vì bổng lộc của triều đình, không phải bằng chữ nghĩa. Ngay cả Trương Vĩnh Ký, có lẽ là một người tận tụy nhất với chữ nghĩa thời thế kỉ 19, nhưng trước khi dấn thân vào viết sách báo, ông cũng từng làm thông ngôn, dạy học, và làm quan để sống.
Một lực lượng làm nghề văn chương bán chuyên nghiệp như thế có thể giải thích con số khiêm tốn về số lượng tác phẩm (132) của Việt Nam trong thời trước thế kỉ 20. Tính trung bình, mỗi thế kỉ cả nước chỉ có khoảng 7 tác phẩm. Và nếu tính theo số lượng cho mỗi tác gia, có thể nói năng suất còn quá thấp! "Năng suất" sáng tác cũng rất thấp. Suốt từ thế kỉ 12 đến 18, cứ 10 tác gia, Việt Nam có khoảng 3 tác phẩm. Tuy nhiên, đến thế kỉ 19, Việt Nam 78 tác gia và sáng tác được 68 tác phẩm đủ loại; tức là, năng suất có phần tiến bộ hơn các thế kỉ trước đó.
Nhìn qua nội dung các tác phẩm văn chương trong các thế kỉ trước, có thể nói là phần lớn những sáng tác chỉ nhắm vào ca ngợi thiên nhiên, quê hương, tình yêu, đạo đức làm người, tạp ghi, trào phúng, v.v. chứ chưa có những tác phẩm nào mang tính khai phá, hay đề xuất một tư tưởng mới. Về thể loại, phần lớn những sáng tác là thơ, rất ít sáng tác văn xuôi. Và phần lớn những sáng tác này cũng rất ngắn. Chưa có một tác phẩm nào của Việt Nam thời trước thế kỉ 20 với hàng chục ngàn câu thơ, mà phần đông chỉ là những bài thơ trung bình độ năm chục chữ. Tiểu thuyết trong thế kỉ 19 cũng chỉ gói gọn trong khoảng hai hay ba trăm trang.
Ngoài ra, mức độ lưu truyền các tác phẩm thời trước thế kỉ 20 chắc chắn là rất hạn chế, bởi vì số người biết đọc chữ Hán hay Nôm lúc đó chắc không nhiều. Chưa ai làm thống kê để biết có bao người biết đọc và viết chữ Hán hay Nôm thời đó, nhưng dựa vào khuynh hướng số người biết đọc và viết trong những năm đầu thế kỉ 20, có thể nói con số người thạo chữ Hán hay Nôm trước thế kỉ 20 chỉ khoảng 5% [6]. Vì thế, có thể nói rằng phần lớn những tác phẩm thời trước chỉ lưu truyền trong giới biết chữ. Những số liệu này cũng xác nhận những nhận xét của Nguyễn Hưng Quốc [7] rằng thời trước thế kỉ 20, văn học Việt Nam chủ yếu là một nền văn học tài tử.
Đại đa số các tác gia là nam giới, và điều này chắc cũng không có gì đáng ngạc nhiên vì, vào các thế kỉ trước, nam giới được xã hội ưu tiên và do đó có cơ hội phát triển tài năng. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng ngay từ thế kỉ 12 và 13, nữ giới đã có mặt trên văn đàn Việt Nam qua sự đóng góp của Lê Thị Ỷ Lan và Ngô Chi Lan. Tất nhiên, trong các thế kỉ sau này, không thể nào không kể đến những Lê Ngọc Hân, Hồ Xuân Hương, và Bà Huyện Thanh Quan.
Những số liệu tác gia trong bài này còn cho thấy một số định kiến người ta thường hay nghĩ có thể không chính xác. Chẳng hạn như Hà Nội thường được xem là thủ đô của ngàn năm văn vật, nhưng nếu tính theo số lượng các tác gia thì sự xưng tụng này không hẳn đúng. Thật vậy, chí tính trong số 276 tác gia trong Từ điển, chỉ có 12% là nguyên quán ở Hà Nội, thấp hơn con số của vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh (Thanh Hoá - Nghệ An - Hà Tĩnh) cộng lại. Nam Định cũng từng nổi tiếng là một vùng đất của văn học, nhưng trong thực tế, số lượng tác gia từ Nam Định còn thấp hơn các vùng đất khác như Hải Dương, Bắc Ninh, và Hà Tây.
Tuổi thọ trung bình của dân số Tây Âu vào các thế kỉ 12 đến 17 thường dưới 50 tuổi, thậm chí dưới 40 tuổi [8]. Tuy nhiên phần đông các tác gia Việt Nam thời trước thế kỉ 20 có tuổi thọ khá cao (trung bình 62 tuổi). Ngay từ thế kỉ 10 và 11, tuổi thọ trung bình của các tác gia là 72 tuổi! Điều này cho thấy các tác gia Việt Nam thời trước thuộc thành phần trung lưu và có thể hưởng nhiều đặc ân trong xã hội thời đó.
Tóm lại, trong suốt 2000 năm hiện diện cùng thế giới, Việt Nam có một lực lượng tác gia rất khiêm tốn. Trong số này, phần lớn là quan chức nam giới, thuộc giai cấp trung lưu, và quan trọng hơn, nghề nghiệp chính của họ không phải là hoạt động văn học. Những yếu tố này có lẽ là một lời giải thích về số lượng sáng tác rất nhỏ và phẩm chất cũng không mấy cao trong các thế kỉ trước. Cho nên, có thể nói rằng nền văn học Việt Nam trước thế kỉ 20 là một nền văn học vừa nghèo nàn, vừa mang tính nghiệp dư.
N.V.T 
Chú thích và tài liệu tham khảo:
1. Tạp san Việt, số 6, năm 2000.
2. Từ điển Văn học Việt Nam, do Lại Nguyên Ân biên soạn, có sự cộng tác của Bùi Văn Trọng Cường. Hà Nội: Nhà Xuất bản Giáo dục, 1999. Sách gồm 800 trang, khổ 14.5 x 20.5 cm.
3. Cũng như hầu hết các phân tích định lượng, trước hết tất cả các tác gia và các thông tin liên quan đến giới tính, quê quán, năm sinh và năm qua đời được đưa vào máy vi tính. Việc làm này (data entry) được kiểm tra một cách cẩn thận. 
4. "Tác gia" ở đây là cụm từ dùng để chỉ những người viết văn, thơ, hay tác phẩm nghệ thuật.
5. "Tác phẩm" ở đây chỉ kể những công trình sáng tác được in ấn thành tập. Do đó, số lượng tác phẩm dùng để phân tích trong bài viết này không kể đến những bài thơ rải rác, dù còn lưu lại và biết đến sau này. Chẳng hạn như bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, hay những bài thơ tương tự của nhiều tác gia khác không kể đến như là những đơn vị tính toán trong bài phân tích này. Những tác tác phẩm của sáng tác dân gian như An Dương Vương, Cây khế, Chàng Lía, Chu Mãi Thần, Đam Săn, Đẻ đất đẻ nước, Kim Nham, Liễu Hạnh, Ông Giống, Man Nương, Sọ Dừa, Sơn Tinh Thủy Tinh, Tấm Cám, Trạng Quỳnh, Trầu Cau, và Tuần Ty Đào Quế cũng không dùng trong bảng thống kê.
6. Xem bài "Một nền văn học nghiệp dư" in trong cuốn Văn Học Việt Nam, Từ Điểm Nhìn H(ậu H)iện Đại của Nguyễn Hưng Quốc, nxb Văn Nghệ, California, 2001, tr. 323-344.
7. Xem bài “Văn học trong một nước mù chữ” của Nguyễn Hưng Quốc, sđd, tr. 267-284. 
8. Theo Clinics in Geriatric Medicine, số đặc biệt về tuổi thọ và quá trình lão hoá (Aging process), số 1, năm 1985, trang 15-29.


Nguồn: FB Nguyen Tuan

-->đọc tiếp...

Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2013

GS. Nguyễn Văn Tuấn: PHẢI THOÁT TÀU

Phải thoát Tàu 
 Nguyễn Văn Tuấn

Những sự việc gần đây như ngư dân VN bị Tàu tấn công nhắc nhở chúng ta rằng Tàu là cạm bẫy, là rủi ro. Các lãnh đạo VN, từ cấp thấp đến cấp cao, đều than phiền rằng mối quan hệ giữa VN và và China có quá nhiều cạm bẫy. Ấy thế mà các thế hệ lãnh đạo VN tiếp tục đưa VN vào quĩ đạo của Tàu. Những dấu hiệu dồn dập trong thời gian gần đây cho thấy nhà cầm quyền VN ngã về phía Tàu. Nói lịch sự như Alan Phan là "định hướng" Tàu. Nhưng người dân bình thường ít chữ nghĩ hơn thì nói dễ hiểu hơn: theo Tàu. Theo tức là chạy theo đuôi người ta. Theo Tàu là bắt chước và chạy theo đuôi Tàu.

Trước hết là một thắc mắc nhỏ về chữ “Trung Quốc”. Hiểu theo nghĩa thông thường Trung Quốc là “quốc gia trung tâm”. Nhưng nghĩa đằng sau có lẽ là trung tâm của thế giới, là middle kingdom. Nhưng có lẽ VN là nước duy nhất trên thế giới gọi China là “Trung Quốc”. Trước 1975, ở miền Nam chẳng có danh từ Trung Quốc. Nhưng sau này tự nhiên chữ Trung Quốc xuất hiện, và trở thành chính thức. Cách gọi đó cũng là một cách thần phục chăng? Tôi nghĩ cách thích hợp nhất là gọi họ là China, hay ngắn hơn là Tàu. Hai cách gọi này chẳng có ý xúc phạm họ và dứt khoát chẳng có ý nghĩa thần phục họ.
Ngày nay, phải thừa nhận rằng VN rất giống Tàu. Hình như cái gì Tàu có thì ta cũng có. Kinh tế thì rập khuôn theo Tàu, nhưng sau họ cả chục năm. Tàu có nhóm lợi ích thì VN cũng có. Tàu có phong trào “thái tử đỏ” thì VN cũng có nhưng qui mô nhỏ hơn. Tàu có tình trạng gian lận bằng cấp và gian dối khoa học thì VN cũng y chang. Ngay cả tên tờ báo (như Nhân Dân) mà cũng y chang như Tàu. Đồng phục quân đội cũng na ná giống Tàu, rất khó phân biệt. Sự rập khuôn theo Tàu phải nói là đáng kinh ngạc!

Càng kinh ngạc hơn về sự hiện diện của Tàu trên toàn nước VN. Hơn 90% (?) những gói thầu xây cất là của người Tàu. Mỗi công trình, từ cầu đường đến nhà máy,Tàu xây xong là một thảm hoạ cho VN. Báo chí VN đã từng đưa tin người Tàu ồ ạt sang VN làm công nhân và ở lại. Tôi kinh ngạc khi biết họ về tận các vùng sâu như U Minh (căn cứ cách mạng ngày xưa) lấy vợ và ở luôn trong đó. Vùng Tây Nguyên người Tàu đã có mặt trên 10 năm nay. Có những nơi thậm chí hình thành nhưng khu phố Tàu. Mới đây ở Vịnh Hạ Long hàng quán Tàu cũng xuất hiện làm cho người ta không biết đó là phố ở Tàu hay ở Việt Nam? Một điều trớ trêu là Việt kiều về thăm VN thì bị kiểm tra gắt gao (thậm chí theo dõi), còn Tàu vào VN thì … thoải mái. Tàu chẳng những vào VN mà còn định cư luôn ở VN, nhưng hỏi chính quyền thì người này đùn đẩy cho người kia.

Ở VN các bậc tiền bối đã từng hô hào "thoát Á luận" hay "thoát Trung luận". Người dân chẳng cần dấu diếm gì để gọi Tàu là kẻ thù của VN. Chẳng những là kẻ thù, mà quan trọng hơn là “kẻ thù truyền kiếp”. Đó là cách hiểu của phần đông người Việt. Cho đến ngay nay, kẻ thù truyền kiếp này vẫn xứng đáng với cách gọi đó, vì chúng còn đang gieo rắc đau khổ cho người Việt. Do đó, không ngạc nhiên khi các bậc tiền bối thuyết phục rằng cần phải thoát khỏi ảnh hưởng của Tàu thì VN mới cất cánh được. Ấy thế mà ngày nay VN đang ngã theo quĩ đạo của Tàu.

Dĩ nhiên, ngoài mặt thì nhà cầm quyền chối rất hăng: chúng tôi chẳng theo ai cả. Nhưng tín hiệu rò rỉ đây đó cho thấy không ít người đương quyền theo Tàu, hay thậm chí thờ Tàu. Một ông đại tá phó giáo sư nhắc nhở các hiệu trưởng đại học rằng Tàu và VN có cùng ông tổ: Mác Lê. Một quan chức ngoại giao chuyên về đàm phán biên giới cho rằng việc Tàu cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của ta như là ông anh cả phạt nhẹ thằng em nhỏ. Báo chí thì rất say sưa với những màn tuyên truyền về sức mạnh quân sự của Tàu, về sự hiện đại của Tàu, như hàm ý nói theo Tàu là đúng hướng. Đúng hướng hay không thì chưa biết, nhưng những viễn ảnh theo Tàu đã được bác Alan Phan vẽ ra trước đây, và phải nói là rùng rợn. Nếu theo Tàu mà không rùng rợn thì VN chắc cũng thê thảm.

Dân gian bây giờ truyền tụng câu "Theo Tàu thì mất nước, theo Tây thì mất đảng." Tây ở đây là Mĩ. Trong thực tế thì chúng ta đã mất một phần Thác Bản Giốc. Nghe đâu diện tích đất VN mất về Tàu tương đương diện tích tỉnh Thái Bình. Dân thì đồn đại mà Nhà nước thì im lặng. Sự im lặng của nhà cầm quyền càng tăng trọng lượng lời đồn mất đất. Còn mất biển thì chúng ta đã và đang thấy. Còn đâu câu nói giữ từng tất đất của tiền nhân. Còn đâu câu "hãy cùng nhau giữ nước". Rất khó “cùng nhau” khi người trẻ xuống đường chống kẻ thù thì bị đi tù.

Nhưng từ xưa đến nay, từ Âu dang Á, chưa có nước nào theo Tàu mà phát triển nổi. Tấm gương cụ thể nhất là VN. Trong và sau thời chiến theo Tàu mà đến nay thì càng lúc càng tụt hạng. Trước đó, Tàu đừng đô hộ VN, và chúng đã ăn cắp biết bao tài sản của VN. Chúng đã đốt sách của ta. Những dĩ nhiên trong thời gian dài đô hộ đó hai nước cũng có giao thoa văn hoá, tốt có, xấu có.

Ngược lại, hình như nước nào thoát khỏi vòng kiềm toả của Tàu, hay thoát khỏi tư duy Á châu thì khá lên thấy rõ. Tôi có lần nói chuyện với giới trí thức Nhật, và họ cho biết rằng Nhật vẫn xem Tàu là “đàn anh”. Dù xem là đàn anh, nhưng Nhật rất khinh Tàu. Người Nhật cũng sớm thoát ảnh hưởng của các tư tưởng Tàu, sẵn sàng du nhập tư tưởng phương Tây từ rất lâu, và chúng ta đã thấy Nhật trở thành cường quốc như thế nào. Một “kẻ thù” của Nhật là Hàn Quốc, nhưng khác với Tàu, người Nhật có vẻ kính nể người Hàn. Hàn Quốc cũng vứt bỏ Tàu để làm bạn với Âu Mĩ, và chúng ta thấy Hàn Quốc đang phát triển ngoạn mục.

Tàu dĩ nhiên từng có một nền văn minh sáng chói. Tàu cũng là một trong những cái nôi văn hoá lớn. Nhưng đó là Tàu của ngàn năm trước, chứ Tàu ngày nay thì chẳng có gì để chúng ta phải học. Dưới chế độ Mao, thay vào những nét văn hoá tinh tuý nhất là tinh thần quốc gia chủ nghĩa hẹp hòi, là vô văn hoá, là lưu manh. Các quan chức Tàu khi ra ngoài hành xử như nhưng kẻ côn đồ thất học và vô văn hoá. Người Tàu ra ngoài cũng thể hiện cái cốt lõi bần tiện và man di của họ. Do đó, người ngoài, kể cả người Á châu, rất khinh Tàu.

Cá nhân tôi nghĩ VN cần phải thoát Tàu và ủng hộ những tư tưởng thoát Tàu. Chúng ta có câu “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Tàu là cạm bẫy, là mực đen; Âu Mĩ là ánh sáng (cũng có góc tối, nhưng nói chung là sáng hơn Tàu). Vậy thì lựa chọn đã quá rõ. Chẳng những thoát Tàu mà còn thoát Á (như Nhật vậy). Thoát Tàu không có nghĩa là chúng ta không chơi với họ. Thật ra tôi có nhiều bạn Tàu, học trò Tàu, nhưng chúng tôi duy trì tình bạn, tình đồng nghiệp, chứ dứt khoát không học cách ứng xử Tàu của họ. Ông bà mình có câu “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Nếu mỗi chúng ta nhận ra những cái gì của Tàu trong đầu mình và cách làm của mình hàng ngày, và lọai bỏ chúng thì dần dần chúng ta sẽ có đủ momentum để thoát Tàu. Để nhận ra những thói đó chỉ cần đọc cuốn “Người Trung Quốc xấu xí” thì biết ngay.
Nguồn: FB Nguyễn Văn Tuấn
 
-->đọc tiếp...

Thứ Sáu, 12 tháng 7, 2013

GS. Nguyễn Văn Tuấn: AI BẢO VỆ NGƯ DÂN ?

Ai bảo vệ ngư dân?
Nguyễn Văn Tuấn
Cứ mỗi lần ngư dân của mình bị bọn hải giám của Tàu tấn công và cướp bóc, câu hỏi cứ lởn vởn trong đầu tôi: chẳng lẽ chẳng có ai bảo vệ ngư dân? Mới ngày hôm kia, một đám hải quân trong chiếc tàu gọi là “hải giám” của chúng đánh đập ngư dân ta, đập phá và ăn cướp ngư cụ, và còn chặt cột cờ. Hành động chặt cột cờ rõ ràng là một sự khiêu chiến. Chợt nhớ hôm nào có ngư dân bảo vệ lá cờ và sau này được trao huy hiệu. Không biết những người theo chủ nghĩa hình thức (trao huy hiệu đó) sẽ làm gì khi kẻ thù ngang nhiên khiêu chiến chặt quốc kì? Vậy mà cho đến nay, sau hai ngày sự việc xảy ra, Chính phủ chẳng hề có một phát biểu chính thức. Chỉ có “Hội nghề cá” lên tiếng một cách yếu ớt.
 
Những hành động đó của quân Tàu chỉ có thể mô tả bằng hai chữ: cướp biển. Bọn cướp biển này có tổ chức và được Chính phủ Tàu bảo trợ. Tiếng Anh có một chữ dành cho những kẻ này: state-sponsored piracy. Cũng có thể xem cướp biển là khủng bố, nên chúng ta cũng có thể dùng chữ state-sponsored terrorism – khủng bố do Nhà nước bảo trợ.

Điều đáng nói là những hành động cướp biển / khủng bố này xảy ra chỉ vài tuần sau chuyến viếng thăm Tàu của ngài Chủ tịch Nước và đoàn quân sự Việt Nam. Chắc có lẽ chúng ta không bao giờ biết được những gì được bàn luận và thoả thuận trong chuyến viếng thăm, cũng như chẳng bao giờ biết được những gì được thoả thuận trong cuộc gặp gỡ Thành Đô trước đây. Những gì viết trong thông cáo báo chí chỉ là “phải đạo” thôi. Nhưng những gì xảy ra trong thực tế cho thấy hình như những hội nghị đó chẳng đem lại lợi ích và an toàn gì cho ngư dân Việt Nam.

Hành động cướp biển / khủng bố mới nhất có lẽ chưa phải là lần sau cùng. Chúng ta còn nhớ trước đây Tàu đã 2 lần cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam. Vài tuần trước, chúng manh động đến độ bắn cháy cabin tàu đánh cá của Việt Nam. Còn những vụ chúng rượt đuổi, cho tàu đụng phá tàu của ngư dân Việt Nam thì đếm không xuể. Có khi chúng ngang nhiên vào tận bờ biển của Việt Nam để gây sự. Tất cả những hành động này cho thấy chúng chẳng xem chủ quyền biển của Việt Nam ra gì (chứ chưa nói đến tôn trọng).

Và hình như chúng có lí do để hành xử lưu manh như thế. Lí do chính là sự khiêm cung của phía VN. Cứ mỗi lần sự việc xảy ra thì phản ứng của phía VN có thể nói là rất “truyền thống” và có thể đoán được. Đầu tiên là các lực lượng chức năng xác minh (làm rõ) sự việc. Phải mất một ngày thậm chí vài ngày thì mới xác minh được thủ phạm “lạ” đó chính là Tàu – kẻ thù của VN. Kế đến là người phát ngôn Bộ Ngoại giao phát biểu những câu chữ mà có lẽ chúng ta đã nghe qua nhiều lần đến độ nhàm (nên không cần lặp lại ở đây). Sau đó thì bên Tàu chúng nó phản bác lại phát biểu của phía VN. Thế là kết thúc. Hậu quả là ngư dân mất của, tổn hại tinh thần. Những ngư dân khác thì ái ngại hơn, suy nghĩ đôi ba lần trước khi đi biển. Dần dần chúng ta mất chủ quyền biển.

Song song với những hành động cướp và khủng bố, chúng còn gia tăng cường độ xâm lấn. Chúng xua hàng trăm, thậm chí hàng ngàn, tàu cá xuống vùng biển VN để đánh bắt. Chúng cho tàu hải quân theo để hộ tống cho đoàn tàu ăn cướp. Thật khó hình dung nổi còn hành động nào du côn hơn? Hành động du côn đó xuất phát từ một chính quyền tự gắn (hay trói) những chữ “tốt” và “vàng” với Việt Nam!

Ngư dân VN chắc ước mong được như ngư dân Tàu. Ngư dân Tàu được quân đội Tàu bảo vệ dù họ cũng chỉ là cướp biển. Còn ngư dân VN thì chẳng có ai bảo vệ họ. Mới tháng 5/2013, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh sau khi nhận định rằng việc Tàu hành hung ngư dân VN là nghiêm trọng, ông tuyên bố rằng “Nếu có những vi phạm vào vùng biển của Việt Nam thì các lực lượng chức năng của ta sẽ có trách nhiệm bảo vệ.” Thế nhưng sự việc xảy ra ngày hôm qua thì chúng ta mới biết chẳng có ai bảo vệ ngư dân ta cả. Người bình thường nhất, bàng quan nhất nhất cũng phải đặt câu hỏi: lực lượng hải quân VN ở đâu và đã làm gì trong khi ngư dân lâm nạn?

Hiện nay, Việt Nam có 4 lực lượng có chức năng bảo vệ ngư dân: Kiểm ngư, Cảnh sát biển, Biên phòng, và Hải quân. Nhưng như chúng ta thấy trong thời gian qua, mỗi khi ngư dân lâm nạn là chẳng thấy bóng dáng các lực lượng này ở đâu. Thật ra, những người đi đánh cá cho biết họ “Bảo vệ gì đâu! ra đó làm sao mà đụng được với Trung Quốc mà bảo vệ? Chỗ đó đâu có ra được chỉ có dân ra chứ bên quân sự đâu có ra được. Khu vực đó thằng Trung Quốc nó quản lý hết làm sao mà ra. Đánh cá thì đánh chui ở Hoàng Sa chớ cảnh sát biển không tới mép nước nữa, do cũng chưa thấy nó. Cảnh sát biển của Trung Quốc thì có. Nếu bảo vệ thì bảo vệ một khúc nào đó thôi, ở vùng nhất định thôi chứ làm sao vô khu vực Hoàng Sa bảo vệ được? Khu vực san hô mới có cá còn ngoài khu vực đó thì nước nó sâu, có rạng không có san hô cho nên đâu có cá.” (trích lời của một ngư dân trả lời phỏng vấn báo chí). Thế thì đã rõ, các lực lượng chức năng chẳng bảo vệ gì được ngư dân cả. Nhưng khi ngư dân có một hành động dũng cảm bảo vệ chủ quyền thì đại diện của các lực lượng chức năng xuất hiện trong đồng phục đẹp và chụp hình trao cái gì đó làm vật lưu niệm.

Không bảo vệ được, nên có lúc người ta nghĩ đến chuyện trang bị vũ khí cho ngư dân. Thật là một ý tưởng lạ lùng và nguy hiểm! Ý tưởng này biến ngư dân thành "món mồi" cho hải quân của kẻ thù vì một khi ngư dân có súng thì chúng càng có thêm lí do để nổ súng. Thật là điên rồ!

Chúng ta nói Hoàng Sa là của Việt Nam và điều đó thì chắc chắn là sự thật. Nhưng giặc Tàu đã chiếm Hoàng Sa và đó cũng là sự thật. Ngày nay chỉ có ngư dân đánh bắt chung quanh ngư trường Hoàng Sa, thì chính những người này mới là “lực lượng” bảo vệ chủ quyền cho Việt Nam. Vậy mà không ai bảo vệ được họ! Cũng chẳng có chính khách nào đến thăm hỏi và biểu dương họ. Thật là trớ trêu. Nghĩ đến đây tôi càng thấm và chua xót khi đọc cái tít của báo chí “Ngư dân thả trôi tính mạng trên Biển Đông”.

Tôi nghĩ đơn giản rằng nếu mình không chống trả nổi sự tấn công của một tên du côn to con thì ít ra mình cũng có thể la lớn để gây chú ý. Tương tự, nếu các lực lượng chức năng không đương đầu được với kẻ thù và giới chức ngoại giao không nói gì, thì chính quyền cũng phải cho phép người dân có tiếng nói để thế giới chú ý. Trong khả năng của mình, tôi chỉ biết mỗi khi thấy cái bản đồ 9 đoạn trên các tập san khoa học thì lập tức phản đối, và phản đối phải kèm theo những thông tin cụ thể về sự khủng bố của Tàu. Có lẽ chúng ta nên làm một database để hệ thống hoá những hành động khủng bố của Tàu chống ngư dân Việt Nam từ trước đến nay. Tôi nghĩ các bạn ở nước ngoài cũng có thể lên tiếng phản đối hành động khủng bố của Tàu đến ngư dân Việt Nam, những người thực sự đang bảo vệ chủ quyền biển đảo cho Việt Nam.
Nguồn: FB Nguyễn Văn Tuấn
 
-->đọc tiếp...

Thứ Tư, 12 tháng 6, 2013

LẤY PHIẾU TÍN NHIỆM, QUỐC HỘI VIỆT NAM CHẲNG GIỐNG AI

Lấy phiếu tín nhiệm:
LẠI THÊM MỘT CÁCH LÀM PHI CHÍNH THỐNG
GS. Nguyễn Văn Tuấn (Úc) 
Xin nói cho rõ, “phi chính thống” ở đây là unorthodoxy, là cách làm chẳng theo một qui tắc khoa học nào cả. Tôi đang nói về cái thang điểm lấy ý kiến tín nhiệm của Quốc hội Việt Nam. Theo thang điểm này, mỗi đại biểu có thể đánh giá thành viên Chính phủ bằng cách chọn một trong 3 điểm như sau:

• Tín nhiệm cao
• Tín nhiệm
• Tín nhiệm thấp

Những ai am hiểu khoa học xã hội nhận ra ngay rằng đây là thang điểm Likert. Xin nhắc lại (vì có người hiểu lầm rằng Likert là lấy từ chữ Like!) rằng người phát kiến ra thang điểm này tên là Rensis Likert, một nhà tâm lí xã hội học. Likert đề xuất thang điểm này vào năm 1932 và sau đó hoàn thiện vào năm 1934. Thang điểm này dùng để đánh giá thái độ, hành vi, sở thích, v.v. của con người. Đây là những biến khó định lượng, nên phát kiến của Likert rất quan trọng, dù nó rất ư đơn giản. 
Nhưng thang điểm Likert là thang điểm hai chiều – bipolar scale. Nói cách khác, thang điểm này phản ảnh tất cả những thái độ đi từ tiêu cực đến tích cực. Chẳng hạn như trong trường hợp lấy ý kiến tín nhiệm, thì thang điểm Likert có thể là 4 điểm như:

• Rất tín nhiệm (very trustworthy)
• Tín nhiệm (trustworthy)
• Không tín nhiệm (untrustworthy)
• Rất không tín nhiệm (very untrustworthy)

Còn đằng này, Quốc hội chỉ dùng thang điểm chẳng giống ai, vì chỉ có 1 chiều! Ngay cả cách soạn câu trả lời (“Tín nhiệm cao”, “Tín nhiệm”, “Tín nhiệm thấp”) đã là bất bình thường. Cái điểm “Tín nhiệm” có nghĩa là gì? Tại sao không cho đại biểu bày tỏ sự “Không tín nhiệm”? Đúng là những kiểu lấy ý kiến như thế này chẳng có ý nghĩa gì và rất khó diễn giải kết quả. Chẳng có ý nghĩa là vì nó không phản ảnh được tâm tình và thái độ của đại biểu. Kết quả khó diễn giải là vì thang điểm chỉ có 1 chiều. 
Vậy thì kết quả lấy phiếu tín nhiệm nên được hiểu như thế nào? Tôi nghĩ vì vấn đề phương pháp, nên chúng ta chỉ có thể mô tả mà thôi. Qua mô tả, chúng ta có thể so sánh giữa các thành viên trong Chính phủ. Để so sánh, chúng ta cần phải tổng hợp 3 giá trị “Tín nhiệm cao”, “Tín nhiệm”, và “Tín nhiệm thấp” thành một điểm tổng hợp (điểm quân bình). Nhưng vấn đề là làm sao tính điểm trung bình cho từng cá nhân?

Báo chí có vẻ lấy số phần trăm “Tín nhiệm cao” để so sánh, nhưng cách làm này không công bằng. Để minh hoạ, chúng ta có thể xem hai trường hợp sau đây: Ông Nguyễn Tấn Dũng, có tỉ lệ “Tín nhiệm cao” là 43%, và ông Nguyễn Văn Hiện cũng có tỉ lệ “Tín nhiệm cao” 43%. Chúng ta có thể xem hai vị này cùng thứ hạng? Câu trả lời là không. Lí do là vì ông Dũng có 25% phiếu “Tín nhiệm”, thấp hơn ông Hiện với 52% phiếu “Tín nhiệm”. Do đó, để đánh giá và xếp hạng công bằng, cần phải định lượng thang điểm. 
Tôi nghĩ có cách định lượng thực tế hơn. Ở đây, mấy người trong Quốc hội chỉ cho các điểm “tích cực” (tín nhiệm), nhưng chúng ta có thể hiểu rằng những người đánh giá điểm “Tín nhiệm thấp” có nghĩa là “Không tín nhiệm” và “Rất không tín nhiệm”. Những người cho điểm “Tín nhiệm” có thể phản ảnh cả đánh giá “Không tín nhiệm”. Giả định đằng sau của thang điểm Likert là có một biến số liên tục. Trong trường hợp chúng ta đang bàn, từ “Rất không tín nhiệm” đến “Rất tín nhiệm” là một dãy số liên tục từ -1 đến +1 (trung bình là 0).

• Rất tín nhiệm cao: trọng số từ 0.5 đến 1 (trung bình là 0.75).
• Tín nhiệm: trọng số từ 0 đến 0.5 (trung bình 0.25)
• Tín nhiệm thấp: trọng số 0 đến -1 (trung bình -0.50)

Do đó, trong trường hợp ông Nguyễn Tấn Dũng, với 210 phiếu “Tín nhiệm cao”, 122 phiếu “Tín nhiệm”, và 160 “Tín nhiệm thấp”, chúng ta có thể tính điểm quân bình là:

(210*0.75 + 122*0.25 – 160*0.50) / 492 = 0.22

và ông Hiện:

(210*0.75 + 253*0.25 – 28*0.50) / 491 = 0.42

Nói cách khác, điểm của ông Dũng trên trung bình chỉ 0.22, và “điểm thật” của ông Hiện cao gần gấp 2 lần điểm ông Dũng. Tính tương tự, và xếp hạng, tôi có bảng số liệu sau đây. Theo bảng này thì bà Kim Ngân có điểm cao nhất (0.61), kế đến là bà Trương Thị Mai, ông Phùng Quang Thanh, ông Uông Chu Lưu, Nguyễn Sinh Hùng, và Trương Tấn Sang. Năm người có điểm thấp nhất là ông Nguyễn Văn Bình (0.02), ông Phạm Vũ Luận (0.07), bà Nguyễn Thị Kim Tiến (0.13), ông Hoàng Tuấn Anh (0.16), và bà Phạm Hải Chuyền (0.19).

Nhưng tất cả chỉ là vui thôi, chứ số liệu thu thập theo kiểu phi chính thống, bất chấp qui tắc khoa học, và 1 chiều thì rất khó diễn giải. Dù sao đi nữa, những số liệu này cũng nói lên một điều là các thành viên trong Chính phủ có độ tín nhiệm thấp. Người cao nhất cũng chỉ 0.61, tức chỉ hơn trung bình 0.11 điểm!

0.61 Bà Nguyễn Thị Kim Ngân
0.58 Bà Trương Thị Mai
0.57 Ông Phùng Quang Thanh
0.56 Ông Uông Chu Lưu
0.55 Ông Nguyễn Sinh Hùng
0.54 Ông Trương Tấn Sang
0.54 Bà Tòng Thị Phóng
0.53 Ông Phùng Quốc Hiển
0.52 Ông Nguyễn Hạnh Phúc
0.52 Ông Phan Trung Lý
0.52 Bà Nguyễn Thị Nương
0.51 Ông Nguyễn Kim Khoa
0.50 Ông Nguyễn Văn Giàu
0.50 Bà Nguyễn Thị Doan
0.50 Ông Trần Đại Quang
0.49 Ông Trần Văn Hằng
0.47 Ông Ksor Phước
0.47 Ông Đào Trọng Thi
0.46 Ông Phạm Bình Minh
0.45 Ông Huỳnh Ngọc Sơn
0.45 Ông Phan Xuân Dũng
0.45 Ông Nguyễn Xuân Phúc
0.43 Ông Vũ Đức Đam
0.42 Ông Nguyễn Văn Hiện
0.42 Ông Bùi Quang Vinh
0.42 Ông Nguyễn Hòa Bình
0.40 Ông Trương Hòa Bình
0.37 Ông Nguyễn Bắc Son
0.37 Ông Hoàng Trung Hải
0.37 Ông Hà Hùng Cường
0.35 Ông Nguyễn Thiện Nhân
0.35 Ông Cao Đức Phát
0.33 Ông Vũ Văn Ninh
0.32 Ông Nguyễn Minh Quang
0.31 Ông Giàng Seo Phử
0.31 Ông Nguyễn Quân
0.29 Ông Đinh La Thăng
0.28 Ông Huỳnh Phong Tranh
0.24 Ông Nguyễn Thái Bình
0.23 Ông Vũ Huy Hoàng
0.23 Ông Trịnh Đình Dũng
0.22 Ông Nguyễn Tấn Dũng
0.19 Bà Phạm Thị Hải Chuyền
0.16 Ông Hoàng Tuấn Anh
0.13 Bà Nguyễn Thị Kim Tiến
0.07 Ông Phạm Vũ Luận
0.02 Ông Nguyễn Văn Bình
Nguồn: https://www.facebook.com/drtuannguyen/posts/10200232988014475
-->đọc tiếp...