Blogger Widgets
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phạm Gia Minh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phạm Gia Minh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP - MỘT BIỂU TƯỢNG CỦA TÍNH NHÂN VĂN


ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP 
– MỘT BIỂU TƯỢNG CỦA TÍNH NHÂN VĂN
 
Phạm Gia Minh

Đứng trước tượng đài các vị danh tướng  trên thế giới công chúng  thường hướng sự ngưỡng mộ về những chiến dịch và trận đánh nổi tiếng, những mưu kế và vũ khí  lợi hại khiến đối phương bị khuất phục .

Với tên tuổi Võ nguyên Giáp thì tài năng quân sự lỗi lạc chỉ mới là bề nổi dễ nhận biết từ bên ngoài .  Điều quan trọng hơn đóng vai trò như nền tảng và cội nguồn nuôi dưỡng tài năng đó lại là chất CON NGƯỜI hay tính NHÂN VĂN của ông.

Điều đầu tiên ,Võ nguyên Giáp lừng lẫy như  một vị tướng của các cuộc chiến tranh vệ quốc chống ngoại xâm và điều này đã làm ông nhân văn  hơn những danh tướng từng mang quân đi chinh phạt các dân tộc đau thương khác. Tính nhân văn vốn là một truyền thống  ứng xử của dân tộc Việt Nam  , bởi vậy , vị Đại tướng  nhân dân  chưa từng được đào tạo qua một trường quân sự chính quy nào ngay từ thuở niên thiếu đã thấm nhuần đạo lý yêu nước “ đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”.

Trong chiến tranh làm sao tránh khỏi  đau thương và mất mát, nhưng liệu có mấy danh tướng trăn trở ngày đêm để làm sao giành được thắng lợi mà vẫn tiết kiệm tới từng giọt máu đào của chiến sĩ ? Ở Võ nguyên Giáp lòng yêu nước nồng nàn, kiên trung với lý tưởng phụng sự Dân tộc và phẩm chất quý trọng xương máu của chiến sĩ đã hòa quyện với trí tuệ quân sự lỗi lạc một cách nhuần nhuyễn, góp phần hình thành nên phong cách cầm quân độc đáo , đó là biết NHẪN.
 

Phải có bản lĩnh như thế nào mới có thể ra lệnh vượt ngàn trùng hiểm nguy để lại rút pháo ra khi tưởng như có thể sẵn sàng tấn công căn cứ điểm Điện Biên Phủ . Phải là người hiểu được bản chất của sự vật tới mức sâu sắc tột cùng và có đủ phẩm chất cá nhân về lòng thương yêu chiến sĩ của mình mới có thể điềm tĩnh và tỉnh táo để tránh những  hy sinh xương máu to lớn mà  không đem lại chiến thắng tưởng như đã trong tầm tay.
.
Thánh Gandhi có lần nói:” nhẫn nhục ví như không khí , chẳng biết chống trả, nhưng có khả năng vô hiệu hóa những quả đấm của kẻ bạo tàn”.

Trong cuộc đời cầm quân , Đại tướng đã nhiều lần làm vô hiệu hóa những quả đấm từ phía đối phương bằng chữ NHẪN hay nói đúng với bản chất sự việc hơn là bằng thái độ khoan dung, độ lượng , điềm tĩnh và tỉnh táo vốn có của mình. Việc hoãn binh để kéo pháo ra ở Điện Biên chỉ là một minh chứng trong rất nhiều minh chứng sinh động.
 

Nhẫn để chờ thời cơ nhưng  khi hành động thì khẩn trương, quyết liệt theo tinh thần của tờ quân lệnh ngày nào “ thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo , táo bạo hơn nữa … quyết chiến và quyết thắng ! ” Đó mới là phong cách Võ nguyên Giáp.

Chất CON NGƯỜI ( viết bằng chữ hoa ) của Đại tướng được hòa quyện với những nét VĂN HÓA tinh hoa kết hợp giữa phương Đông và phương Tây . Đại tướng là người am hiểu nghệ thuật dùng binh của Lý thường Kiệt, Trần hưng Đạo, Ngô Quyền ...từ truyền thống dân tộc, nắm vững binh pháp Tôn Tử của Trung Hoa nhưng cũng dùng tiếng Pháp, Hoa, Anh … ở mức văn hoa để giao tiếp đối ngoại và học hỏi nghệ thuật quân sự của các nước trên thế giới.

Ít người được chứng kiến Đại tướng khi rảnh rỗi vẫn tự chơi Piano những bản nhạc của Chopin hay Chaicopxki…và trong đời thường là một người chồng, người ông, người cha và người bạn rất mực tận tụy, chân thành , chu đáo và hiền từ.

Ông là người được giới văn nghệ sĩ, khoa học gần gũi để gửi gắm tâm tư những khi khó khăn, khúc mắc. Và không phải ngẫu nhiên những đối thủ một thời trong chiến tranh đã lấy làm hãnh diện được làm “ kẻ thù danh dự” ( honorable Enemy ) của ông.

Nhà sử học Võ nguyên Giáp bằng cuộc đời dài hơn một thế kỷ của mình thực sự đã làm nên lịch sử.

Và chúng ta, những hậu duệ của ông hãy rút ra những bài học quý báu từ tính NHÂN VĂN của ông để lấy đó làm nền tảng, làm nguồn mạch cho mọi suy nghĩ và hành động của mình.

Một câu hỏi cho tới giờ phút này vẫn canh cánh trong tôi:” vì sao Cụ Hồ đã tặng ông biệt danh “VĂN”?. Và phải chăng phải có VĂN, có chất CON NGƯỜI thì VÕ mới cao cường và bách chiến bách thắng?

Thăng Long – Hà Nội 6/10/2013
TS. Phạm Gia Minh


-->đọc tiếp...

Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

TS. Phạm Gia Minh: ĐÃ ĐẾN LÚC CÙNG NGỒI LẠI ĐỂ BÀN VỀ LỐI RA

ĐÃ ĐẾN LÚC CÙNG NGỒI LẠI ĐỂ BÀN VỀ LỐI RA
Phạm Gia Minh

Các Anh, Chị kính mến.
Xin chào mừng sự ra đời của Diễn đàn XHDS - một hình thức phù hợp cho giai đoạn hiện nay để tất cả các xu hướng chính trị - xã hội của người Việt yêu nước cùng ngồi lại để bàn về lối ra cho Dân tộc.

Nhân dịp này xin lấy chút ít thời gian vàng ngọc của các anh/chị để tại hạ được giới thiệu lại bài viết đăng trên Viet-studies cách đây nửa năm đề cập tới chủ đề ĐỐI THOẠI DÂN TỘC.

Thế mới biết rằng xã hội chúng ta đang chuyển động nhanh chứ không đáng bi quan như một số người yếm thế trong tháp ngà vẫn nghĩ.
Trân trọng
PGM
Có một sự thật lịch sử là những khi nào đảng cộng sản Việt Nam giương cao ngọn cờ Dân tộc – Dân chủ, bám sát nguyện vọng của quần chúng nhân dân thì đảng giành thắng lợi to lớn. 

Thời kỳ Cách mạng Tháng 8-1945 Hồ Chí Minh biết mềm dẻo và khôn khéo thành lập mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp tất cả các lực lượng có xu hướng chính trị khác nhau để huy động sức mạnh toàn dân tộc đánh đổ phong kiến và thực dân nên đã thành công.

Các cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp và chống Mỹ có nền tảng vững chắc là tinh thần yêu nước, căm ghét ngoại xâm luôn mãnh liệt trong huyết quản của mỗi con dân nước Việt lại được sự lãnh đạo đúng đắn lúc đó của đảng khi đã đoàn kết được mọi tầng lớp xã hội và tranh thủ được sự ủng hộ mạnh mẽ, toàn diện của quốc tế nên đã thắng lợi vẻ vang.


Chính sách người cày có ruộng thời những năm 1950 hay chủ trương “khoán sản phẩm trong nông nghiệp” xuất phát từ sáng kiến của ông Kim Ngọc đã thực sự tạo nên tinh thần phấn chấn và động lực kinh tế mạnh mẽ đối với hàng chục triệu nông dân. Chủ trương Đổi mới những năm cuối của thập kỷ 80 thế kỷ trước cũng đã khơi dậy sức mạnh thần kỳ như Thánh Gióng của cả dân tộc giúp đất nước khởi sắc để hội nhập quốc tế và cất cánh.


Tuy nhiên trong quá khứ đảng cũng có những sai lầm và thất bại khi đưa ra khẩu hiệu “trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ” chịu ảnh hưởng của lý luận đấu tranh giai cấp, cách mạng vô sản cực đoan, tả khuynh không phù hợp với thực tiễn xã hội Việt Nam khiến cách mạng thoái trào sau sự kiện Xô viết Nghệ Tĩnh.


Cải cách ruộng đất, “nhân văn giai phẩm”, “chủ nghĩa thành phần, lý lịch”, cải tạo tư bản tư doanh ở Miền Bắc năm 1954 và Miền Nam sau năm 1975 là những bài học đau xót vì đã áp dụng cứng nhắc các giáo điều đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản Mác-Lê khi chưa hiểu rõ hiện tình đất nước và khát vọng của dân tộc.


Vẫn biết khát vọng Độc lập dân tộc là trường tồn, mãnh liệt và bao trùm nhưng khi dân tộc đã có Độc lập rồi thì một cách tự nhiên quần chúng đòi hỏi quyền Tự do, Dân chủ và cuộc sống Hạnh phúc không phải chỉ trên khẩu hiệu, lời hứa suông hay những dòng chữ vẫn được in trên tiêu đề của các biểu mẫu văn bản giao dịch.


Nhân dân đã có Tự do chưa khi quyền được phát ngôn, góp ý nêu nguyện vọng về những vấn đề trọng đại qua các cuộc Trưng cầu dân ý vẫn bị “treo” đã 67 năm từ 1946 cho tới nay? Chưa kể những quyền Tự do khác cứ bị “teo” dần trong những bản Hiến pháp ra đời sau này. Những quyết định trọng đại có ảnh hưởng tới đất nước như dự án khai thác Bô Xít Tây Nguyên, sáp nhập Hà Tây vào Hà nội v.v… người dân nào có quyền biểu quyết!


Đặc biệt, gần đây các nhân sĩ trí thức tiêu biểu, các cán bộ Cách mạng lão thành cùng hàng ngàn người dân đủ mọi thành phần trong và ngoài nước tham gia góp ý sửa đổi Hiến Pháp 1992 lại lập tức bị quy kết là “suy thoái tư tưởng, tác phong và đạo đức” hoặc “lợi dụng tự do dân chủ để chống phá chế độ”, “làm đảo chính mềm” v.v.... Hỏi rằng dân chủ XHCN là như vậy thì còn thu phục được ai đi theo đây? Hồ Chí Minh có sống lại chắc Người cũng phải nhỏ lệ trước hiện thực tê tái này.


Nếu như chính sách “người cày có ruộng” ngày nào đã tạo nên động lực to lớn cho Cách mạng thì giờ đây vì sao lại để xảy ra tình trạng biểu tình, khiếu kiện trên cả nước vì mất đất và đi liền với đó là nạn tham nhũng của đội ngũ hùng hậu các quan tham có quyền phân đất hay đúng với sự thật hơn là cướp đất của nông dân? Những “hậu sinh khả úy” của nghị Quế, nghị Hách năm xưa giờ đây lại ra rả nói rất hay về “học tập tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh” và lòng trung thành với đảng cộng sản Việt Nam khiến những người còn chút lương tri trong và ngoài đảng vô cùng ngao ngán và phẫn uất.


Phải chăng chính sách về ruộng đất gần đây trong Hiến Pháp đã thể hiện sự xa rời quần chúng khi mà nhà nước thâu tóm lại toàn bộ quyền sở hữu về đất đai?


Sự xa rời đã tới mức nguy hiểm khi nhiều cơ quan công quyền không đánh giá đúng tâm trạng người dân bức xúc trước hành động xâm lấn Biển Đông của những lực lượng diều hâu ở Bắc Kinh, xuống đường hoặc có những hành động phong phú khác biểu thị lòng yêu nước, thì lại bị ngăn chặn, đàn áp thô bạo. Những lập luận cho rằng có các thế lực thù địch sẽ lợi dụng biểu tình để chống đối nhà nước rõ ràng không thể đứng vững nếu nhớ lại thời chống Mỹ trên cả nước đã có biết bao cuộc tuần hành khổng lồ của quần chúng để tỏ rõ ý chí quật cường của dân tộc Việt trước giặc ngoại xâm. Phải chăng chính quyền thời nay đã rất khác thời đó nên mối quan hệ trong một số lĩnh vực với nhân dân cũng khác xưa, thay vì đồng thuận lại trở nên đối kháng?


Hay là vì phải giữ “hòa hiếu” và tôn trọng các “cam kết cấp cao ở Thành đô” với thế lực bành trướng Đại Hán đang muốn nuốt chửng Biển Đông bằng cái lưỡi bò bất chấp luật pháp quốc tế thì chính quyền phải “hèn với giặc và ác với dân” như trước đây Tự Đức đã hành xử khi Pháp xâm lược đầu thế kỷ XIX và Trần Nhật Hiệu với lời tấu “Nhập Tống” hèn nhát bên thềm cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ nhất?


Mọi sự nhân nhượng hay “động tác khéo léo” dù mang tính chiến thuật với quân xâm lược nếu thiếu đi sự thông cảm và hậu thuẫn mạnh mẽ của nhân dân yêu nước xưa nay đều thất bại. Chẳng lẽ trong lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc còn thiếu các bài học đắng cay hay sao?


Vả chăng có người còn thành tâm nâng niu cái “tài sản vô giá là ý thức hệ chung giữa hai ĐCS Trung Quốc và Việt Nam” khi biết rõ rằng đối với Bắc Kinh không có đồng minh theo ý thức hệ mà chỉ có quyền lợi thực dụng theo kiểu “Mèo trắng hay mèo đen miễn bắt được chuột …” là trên hết.


Không biết cái ý thức hệ của “bạn” nó cao cả và phù hợp với Việt Nam tới đâu mà Tổng bí thư kiêm Chủ Tịch Trung Hoa Tập Cận Bình gần đây trong một phát biểu với cán bộ ở Bắc Kinh đã tỏ ra lo ngại về 2 mối đe dọa lớn nhất hiện nay là sự suy yếu lòng tin của dân chúng và sự gặm nhấm của tham nhũng có thể khiến ĐCS Trung Quốc chỉ đón nhận sinh nhật đến lần thứ 100, tức là chỉ còn 8 năm … . Chẳng lẽ chúng ta cũng quyết cùng chung ý thức hệ với “bạn 16 chữ vàng và 4 tốt ” để rồi cùng tiêu vong sau mấy năm nữa?


Chẳng ai nói dối hay lừa mị nhân dân được mãi, thử hỏi những cán bộ mũ cao, áo dài thường lên lớp về chủ nghĩa Mác- Lê, về liên minh giai cấp công–nông và cách mạng vô sản hay định hướng XHCN có ai còn là vô sản hay người nào cũng có của chìm, của nổi ở cả trong và ngoài nước trị giá nhiều tỷ rồi?


Nếu thật sự là trung thành với ý thức hệ của giai cấp vô sản thì các vị có dám dũng cảm tổ chức những “Tuần lễ Vàng” để quyên góp phần lớn khối tài sản khổng lồ của mình vào công quỹ giúp đỡ người nghèo và phát triển đất nước theo tinh thần “hữu ái vô sản” hay không?. Và nếu mai mốt những người nông dân bị mất đất, hết kế sinh nhai, những công nhân bị thất nghiệp do nhà máy bị phá sản bởi quan tham đục khoét như đã xảy ra với Vinashin, Vinalines v.v…và đám thị dân cùng sinh viên ra trường thiếu việc làm tụ họp nhau lại để hô những khẩu hiệu cách mạng vô sản cướp lại của cải từ tay người giàu một lần nữa thì các vị có ủng hộ như cách đây gần 70 năm nữa không?


Xem ra thì ngọn cờ ý thức hệ mà đảng đang giương cao không tập hợp được quần chúng yêu nước hiện nay vì những người cầm cờ đang thiếu chính danh và lòng tin của quần chúng.


Và nếu không làm được như thế thì hãy một lần trung thực với bản thân và nhân dân để cùng ngồi lại với các tầng lớp xã hội không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, tôn giáo hay dân tộc và chính kiến để bàn về một lối ra khả dĩ nhất cho tương lai dân tộc.


Tại thời điểm này của thế kỷ XXI lịch sử đã sang trang, thế giới đã khác trước khi không còn sự đối kháng ý thức hệ giữa hai phe Cộng sản và Tư bản suốt thời kỳ “chiến tranh lạnh” và dân Việt Nam ta cũng khác trước. Đúng như lời Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu, đại ý “người ở nhà tranh thì suy nghĩ khác người ở nhà ngói…”, giờ đây khi cơm đã no, áo đã ấm và TV, tủ lạnh, xe cộ và các tiện nghi sinh hoạt vật chất khác đã tạm gọi là đầy đủ đối với số đông quần chúng thì nhu cầu có nhiều hơn tự do tinh thần, tư tưởng và hoạt động cộng đồng đa dạng theo sở thích và sở trường riêng đã trở nên ngày một phổ biến và cấp thiết.


Thế giới vốn đa nguyên và xã hội loài người cũng vậy. Một chính đảng có thể giành thắng lợi trong những giai đoạn lịch sử nhất định nhưng nếu không trau dồi sức chiến đấu, gần gũi với quần chúng thì sẽ dần tha hóa và bị chính quần chúng đào thải để cho những lực lượng chính trị hay đảng phái khác có sức sống hơn tiến lên vũ đài. Bằng cách hiến định quyền lãnh đạo mọi mặt xã hội Xô Viết tại điều 6 trong Hiến Pháp năm 1977 ĐCS Liên Xô tại sao vẫn sụp đổ ? Ấy là vì lý tưởng của đảng đã bị nhạt phai và đảng đã tự mình xa rời quần chúng để trở nên một tổ chức suy thoái,mất sức chiến đấu do ở trên đỉnh cao quyền lực độc tôn quá lâu mà không bị cạnh tranh để phải luôn tự mài sắc vũ khí.

Theo tinh thần đó bản Kiến nghị về sửa đổi Hiến Pháp 1992 do 72 nhân sĩ, trí thức và các vị lão thành Cách mạng khởi xướng cần được nhìn nhận như một hành động yêu nước và có trách nhiệm với dân tộc khi họ dũng cảm đề đạt đường hướng giúp đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng sâu sắc, toàn diện trong khi giặc ngoại xâm đang xâm nhập sâu vào các mặt chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội v.v…và lăm le ngoài Biển Đông như hiện nay.

Có điều, đó mới chỉ là những đường hướng đúng đắn và đã đến lúc đảng, nhà nước và tất cả các lực lượng xã hội trong và ngoài nước cần ngồi lại với nhau để tìm ra những con đường đi cụ thể theo tinh thần Diên Hồng, không bạo lực, quên đi quá khứ và không hồi tố . Hy vọng rằng lãnh đạo ĐCS Việt Nam sẽ thể hiện thiện chí và chủ động nắm bắt lấy cơ hội quý báu này để một lần nữa đảng vẫn giương cao thắng lợi ngọn cờ Dân tộc – Dân chủ và tiếp tục xứng đáng là một đảng cầm quyền như Hồ Chí Minh trong Di chúc đã căn dặn.


Thăng long- Hà nội 6/3/2013 
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 6-3-13
-->đọc tiếp...

Thứ Năm, 7 tháng 3, 2013

TS. PHẠM GIA MINH: ĐÃ ĐẾN LÚC CÙNG NGỒI LẠI ĐỂ BÀN VỀ LỐI RA


ĐÃ ĐẾN LÚC CÙNG NGỒI LẠI ĐỂ BÀN VỀ LỐI RA
Phạm Gia Minh

Có một sự thật lịch sử là những khi nào đảng cộng sản Việt Nam giương cao ngọn cờ Dân tộc – Dân chủ, bám sát nguyện vọng của quần chúng nhân dân thì đảng giành thắng lợi to lớn.
 
Thời kỳ Cách mạng Tháng 8-1945 Hồ Chí Minh biết mềm dẻo và khôn khéo thành lập mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp tất cả các lực lượng có xu hướng chính trị khác nhau để huy động sức mạnh toàn dân tộc đánh đổ phong kiến và thực dân nên đã thành công.

Các cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp và chống Mỹ có nền tảng vững chắc là tinh thần yêu nước, căm ghét ngoại xâm luôn mãnh liệt trong huyết quản của mỗi con dân nước Việt lại được sự lãnh đạo đúng đắn lúc đó của đảng khi đã đoàn kết được mọi tầng lớp xã hội và tranh thủ được sự ủng hộ mạnh mẽ, toàn diện của quốc tế nên đã thắng lợi vẻ vang.

Chính sách người cày có ruộng thời những năm 1950 hay chủ trương “khoán sản phẩm trong nông nghiệp” xuất phát từ sáng kiến của ông Kim Ngọc đã thực sự tạo nên tinh thần phấn chấn và động lực kinh tế mạnh mẽ đối với hàng chục triệu nông dân. Chủ trương Đổi mới những năm cuối của thập kỷ 80 thế kỷ trước cũng đã khơi dậy sức mạnh thần kỳ như Thánh Gióng của cả dân tộc giúp đất nước khởi sắc để hội nhập quốc tế và cất cánh.

Tuy nhiên trong quá khứ đảng cũng có những sai lầm và thất bại khi đưa ra khẩu hiệu “trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ” chịu ảnh hưởng của lý luận đấu tranh giai cấp, cách mạng vô sản cực đoan, tả khuynh không phù hợp với thực tiễn xã hội Việt Nam khiến cách mạng thoái trào sau sự kiện Xô viết Nghệ Tĩnh.

Cải cách ruộng đất, “nhân văn giai phẩm”, “chủ nghĩa thành phần, lý lịch”, cải tạo tư bản tư doanh ở Miền Bắc năm 1954 và Miền Nam sau năm 1975 là những bài học đau xót vì đã áp dụng cứng nhắc các giáo điều đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản Mác-Lê khi chưa hiểu rõ hiện tình đất nước và khát vọng của dân tộc.

Vẫn biết khát vọng Độc lập dân tộc là trường tồn, mãnh liệt và bao trùm nhưng khi dân tộc đã có Độc lập rồi thì một cách tự nhiên quần chúng đòi hỏi quyền Tự do, Dân chủ và cuộc sống Hạnh phúc không phải chỉ trên khẩu hiệu, lời hứa suông hay những dòng chữ vẫn được in trên tiêu đề của các biểu mẫu văn bản giao dịch.

Nhân dân đã có Tự do chưa khi quyền được phát ngôn, góp ý nêu nguyện vọng về những vấn đề trọng đại qua các cuộc Trưng cầu dân ý vẫn bị “treo” đã 67 năm từ 1946 cho tới nay? Chưa kể những quyền Tự do khác cứ bị “teo” dần trong những bản Hiến pháp ra đời sau này.[1] Những quyết định trọng đại có ảnh hưởng tới đất nước như dự án khai thác Bô Xít Tây Nguyên, sáp nhập Hà Tây vào Hà nội v.v… người dân nào có quyền biểu quyết!

Đặc biệt, gần đây các nhân sĩ trí thức tiêu biểu, các cán bộ Cách mạng lão thành cùng hàng ngàn người dân đủ mọi thành phần trong và ngoài nước tham gia góp ý sửa đổi Hiến Pháp 1992 lại lập tức bị quy kết là “suy thoái tư tưởng, tác phong và đạo đức” hoặc “lợi dụng tự do dân chủ để chống phá chế độ”, “làm đảo chính mềm” v.v…. Hỏi rằng dân chủ XHCN là như vậy thì còn thu phục được ai đi theo đây? Hồ Chí Minh có sống lại chắc Người cũng phải nhỏ lệ trước hiện thực tê tái này.

Nếu như chính sách “người cày có ruộng” ngày nào đã tạo nên động lực to lớn cho Cách mạng thì giờ đây vì sao lại để xảy ra tình trạng biểu tình, khiếu kiện trên cả nước vì mất đất và đi liền với đó là nạn tham nhũng của đội ngũ hùng hậu các quan tham có quyền phân đất hay đúng với sự thật hơn là cướp đất của nông dân? Những “hậu sinh khả úy” của nghị Quế, nghị Hách năm xưa giờ đây lại ra rả nói rất hay về “học tập tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh” và lòng trung thành với đảng cộng sản Việt Nam khiến những người còn chút lương tri trong và ngoài đảng vô cùng ngao ngán và phẫn uất.

Phải chăng chính sách về ruộng đất gần đây trong Hiến Pháp đã thể hiện sự xa rời quần chúng khi mà nhà nước thâu tóm lại toàn bộ quyền sở hữu về đất đai? 

Sự xa rời đã tới mức nguy hiểm khi nhiều cơ quan công quyền không đánh giá đúng tâm trạng người dân bức xúc trước hành động xâm lấn Biển Đông của những lực lượng diều hâu ở Bắc Kinh, xuống đường hoặc có những hành động phong phú khác biểu thị lòng yêu nước, thì lại bị ngăn chặn, đàn áp thô bạo. Những lập luận cho rằng có các thế lực thù địch sẽ lợi dụng biểu tình để chống đối nhà nước rõ ràng không thể đứng vững nếu nhớ lại thời chống Mỹ trên cả nước đã có biết bao cuộc tuần hành khổng lồ của quần chúng để tỏ rõ ý chí quật cường của dân tộc Việt trước giặc ngoại xâm. Phải chăng chính quyền thời nay đã rất khác thời đó nên mối quan hệ trong một số lĩnh vực với nhân dân cũng khác xưa, thay vì đồng thuận lại trở nên đối kháng?

Hay là vì phải giữ “hòa hiếu” và tôn trọng các “cam kết cấp cao ở Thành đô” với thế lực bành trướng Đại Hán đang muốn nuốt chửng Biển Đông bằng cái lưỡi bò bất chấp luật pháp quốc tế thì chính quyền phải “hèn với giặc và ác với dân” như trước đây Tự Đức đã hành xử khi Pháp xâm lược đầu thế kỷ XIX và Trần Nhật Hiệu với lời tấu “Nhập Tống” hèn nhát bên thềm cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ nhất?

Mọi sự nhân nhượng hay “động tác khéo léo” dù mang tính chiến thuật với quân xâm lược nếu thiếu đi sự thông cảm và hậu thuẫn mạnh mẽ của nhân dân yêu nước xưa nay đều thất bại. Chẳng lẽ trong lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc còn thiếu các bài học đắng cay hay sao ?

Vả chăng có người còn thành tâm nâng niu cái “tài sản vô giá là ý thức hệ chung giữa hai ĐCS Trung Quốc và Việt Nam” khi biết rõ rằng đối với Bắc Kinh không có đồng minh theo ý thức hệ mà chỉ có quyền lợi thực dụng theo kiểu “Mèo trắng hay mèo đen miễn bắt được chuột …” là trên hết.

Không biết cái ý thức hệ của “bạn” nó cao cả và phù hợp với Việt Nam tới đâu mà Tổng bí thư kiêm Chủ Tịch Trung Hoa Tập Cận Bình gần đây trong một phát biểu với cán bộ ở Bắc Kinh đã tỏ ra lo ngại về 2 mối đe dọa lớn nhất hiện nay là sự suy yếu lòng tin của dân chúng và sự gặm nhấm của tham nhũng có thể khiến ĐCS Trung Quốc chỉ đón nhận sinh nhật đến lần thứ 100, tức là chỉ còn 8 năm … .[2] Chẳng lẽ chúng ta cũng quyết cùng chung ý thức hệ với “bạn 16 chữ vàng và 4 tốt ” để rồi cùng tiêu vong sau mấy năm nữa?

Chẳng ai nói dối hay lừa mị nhân dân được mãi, thử hỏi những cán bộ mũ cao, áo dài thường lên lớp về chủ nghĩa Mác- Lê, về liên minh giai cấp công–nông và cách mạng vô sản hay định hướng XHCN có ai còn là vô sản hay người nào cũng có của chìm, của nổi ở cả trong và ngoài nước trị giá nhiều tỷ rồi? 

Nếu thật sự là trung thành với ý thức hệ của giai cấp vô sản thì các vị có dám dũng cảm tổ chức những “Tuần lễ Vàng” để quyên góp phần lớn khối tài sản khổng lồ của mình vào công quỹ giúp đỡ người nghèo và phát triển đất nước theo tinh thần “hữu ái vô sản” hay không?. Và nếu mai mốt những người nông dân bị mất đất, hết kế sinh nhai, những công nhân bị thất nghiệp do nhà máy bị phá sản bởi quan tham đục khoét như đã xảy ra với Vinashin, Vinalines v.v…và đám thị dân cùng sinh viên ra trường thiếu việc làm tụ họp nhau lại để hô những khẩu hiệu cách mạng vô sản cướp lại của cải từ tay người giàu một lần nữa thì các vị có ủng hộ như cách đây gần 70 năm nữa không?

Xem ra thì ngọn cờ ý thức hệ mà đảng đang giương cao không tập hợp được quần chúng yêu nước hiện nay vì những người cầm cờ đang thiếu chính danh và lòng tin của quần chúng.

Và nếu không làm được như thế thì hãy một lần trung thực với bản thân và nhân dân để cùng ngồi lại với các tầng lớp xã hội không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, tôn giáo hay dân tộc và chính kiến để bàn về một lối ra khả dĩ nhất cho tương lai dân tộc.

Tại thời điểm này của thế kỷ XXI lịch sử đã sang trang, thế giới đã khác trước khi không còn sự đối kháng ý thức hệ giữa hai phe Cộng sản và Tư bản suốt thời kỳ “chiến tranh lạnh” và dân Việt Nam ta cũng khác trước. Đúng như lời Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu, đại ý “người ở nhà tranh thì suy nghĩ khác người ở nhà ngói…”, giờ đây khi cơm đã no, áo đã ấm và TV, tủ lạnh, xe cộ và các tiện nghi sinh hoạt vật chất khác đã tạm gọi là đầy đủ đối với số đông quần chúng thì nhu cầu có nhiều hơn tự do tinh thần, tư tưởng và hoạt động cộng đồng đa dạng theo sở thích và sở trường riêng đã trở nên ngày một phổ biến và cấp thiết.

Thế giới vốn đa nguyên và xã hội loài người cũng vậy. Một chính đảng có thể giành thắng lợi trong những giai đoạn lịch sử nhất định nhưng nếu không trau dồi sức chiến đấu, gần gũi với quần chúng thì sẽ dần tha hóa và bị chính quần chúng đào thải để cho những lực lượng chính trị hay đảng phái khác có sức sống hơn tiến lên vũ đài. Bằng cách hiến định quyền lãnh đạo mọi mặt xã hội Xô Viết tại điều 6 trong Hiến Pháp năm 1977 ĐCS Liên Xô tại sao vẫn sụp đổ ? Ấy là vì lý tưởng của đảng đã bị nhạt phai và đảng đã tự mình xa rời quần chúng để trở nên một tổ chức suy thoái,mất sức chiến đấu do ở trên đỉnh cao quyền lực độc tôn quá lâu mà không bị cạnh tranh để phải luôn tự mài sắc vũ khí.

Theo tinh thần đó bản Kiến nghị về sửa đổi Hiến Pháp 1992 do 72 nhân sĩ, trí thức và các vị lão thành Cách mạng khởi xướng cần được nhìn nhận như một hành động yêu nước và có trách nhiệm với dân tộc khi họ dũng cảm đề đạt đường hướng giúp đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng sâu sắc, toàn diện trong khi giặc ngoại xâm đang xâm nhập sâu vào các mặt chính trị – kinh tế – văn hóa – xã hội v.v…và lăm le ngoài Biển Đông như hiện nay. 

Có điều, đó mới chỉ là những đường hướng đúng đắn và đã đến lúc đảng, nhà nước và tất cả các lực lượng xã hội trong và ngoài nước cần ngồi lại với nhau để tìm ra những con đường đi cụ thể theo tinh thần Diên Hồng, không bạo lực, quên đi quá khứ và không hồi tố .[3] Hy vọng rằng lãnh đạo ĐCS Việt Nam sẽ thể hiện thiện chí và chủ động nắm bắt lấy cơ hội quý báu này để một lần nữa đảng vẫn giương cao thắng lợi ngọn cờ Dân tộc – Dân chủ và tiếp tục xứng đáng là một đảng cầm quyền như Hồ Chí Minh trong Di chúc đã căn dặn. 

Thăng long- Hà nội 6/3/2013
 

[1] Hoàng Xuân Phú. “Teo dần quyền con người trong Hiến Pháp”. Blog Hoàng Xuân Phú. 15/1/2013 [2] Theo Infonet ngày 4/3/2013 [3] Nguyễn Trung. “ Thư ngỏ gửi Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ nước CHXHCNVN” (viet-studies ngày 19/2/2013)

Nguồn: Viet-studies

-->đọc tiếp...

Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013

PHẠM GIA MINH: VÌ SAO BẢN HIẾN PHÁP 1946 LẠI MANG TÍNH DÂN CHỦ?

VÌ SAO BẢN HIẾN PHÁP 1946 LẠI MANG TÍNH DÂN CHỦ?
Phạm Gia Minh

Từ xa xưa trong lịch sử các dân tộc chung sống trên mảnh đất Việt Nam đã hình thành nên những truyền thống mang nhiều nội dung dân chủ,đề cao tính nhân văn và giải phóng con người. Đạo Mẫu của tộc Việt đề cao vai trò người phụ nữ trong xã hội khác hẳn với một Trung Hoa phong kiến hà khắc, phi nhân tính. Hoặc như tập tục “phép vua còn thua lệ làng” cùng rất nhiều dẫn chứng được lấy từ văn học dân gian là những ví dụ sinh động đầy tính thuyết phục cho cái “ chất” yêu tự do, dân chủ của con người Việt Nam. 

Vị trí đất nước ở ngã ba thủy lộ của Biển Đông và nằm giữa hai nền văn hóa lớn là Trung Hoa và Ấn Độ lại sớm tiếp xúc với giới thương nhân và các nhà truyền đạo Phương Tây một cách tự nhiên đã tạo cho chúng ta phong thái linh hoạt và lối tư duy “đón gió bốn phương ” để dễ dàg tiếp thu, nhưng cũng mau chóng đào thải những gì không phù hợp với cái cốt cách yêu tự do của mình. 

Và chính những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm với biết bao hy sinh nhưng rất đáng tự hào là minh chứng hùng hồn nhất cho khát vọng độc lập, tự do của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Từ thời Lê Sơ nhà nước Việt Nam đã có bộ Luật Hồng Đức (1470- 1497) tiếp thu 200 điều từ bộ luật nhà Đường, 17 điều từ luật nhà Minh, trong đó có 178 điều chung đề tài với các bộ luật Trung Hoa nhưng lại khác hẳn về giải pháp. Đáng ghi nhận là có tới 328 điều luật không tương ứng với bất kỳ điều luật nào của Tàu(1). Quyền và địa vị của người phụ nữ trong xã hội được coi trọng và đặc biệt đã có sự phân định rõ ràng sở hữu đất đai của người dân (Tư điền/Tư thổ) với đất đai của nhà nước phong kiến (Công điền/Công thổ). Điều này được giới nghiên cứu đặc biệt đánh giá cao bởi lẽ ở chính nơi mà không gian ngột ngạt, trì trệ và toàn trị của mô thức phát triển kiểu Châu Á, nơi mà toàn bộ đất đai đều thuộc về vua chúa hay Hoàng Đế(2) lại có những ngoại lệ cho phép người dân sở hữu ruộng, đất, làm chủ mùa màng và chỉ phải đóng thuế. Đó là đặc điểm dân chủ hiếm có ở phương Đông phong kiến.

Trải qua hơn 20 năm bôn ba hải ngoại tìm đường giành độc lập cho dân tộc, Hồ Chí Minh đã tiếp thu nền văn minh phương Tây với những giá trị Tự do, Bác ái, Dân chủ, Bình quyền và nhận thức rằng đó chính là những đặc trưng phù hợp với khát vọng ngàn đời của người Việt. Bản tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra đời trong bối cảnh như vậy. 

Đó là một bản hiến pháp chưa thể nói là hoàn hảo nhưng sự ra đời của nó KHÔNG BỊ BẤT CỨ THẾ LỰC BÊN NGOÀI NÀO ÉP BUỘC và hoàn toàn dựa trên ý nguyện xây dựng một xã hội dân chủ, tự do của một dân tộc sau bao năm bị giam hãm trong ý thức hệ Khổng giáo và ách cai trị của chủ nghĩa thực dân cũ.

Trong những lần tiếp xúc với Archimedes Patti, sĩ quan OSS – một tổ chức tiền thân của CIA, Hồ Chí Minh đã thẳng thắn thừa nhận rằng đối với ông mục tiêu tối thượng là giành độc lập cho dân tộc, còn chủ nghĩa cộng sản là phương tiện, là một cứu cánh để đạt mục tiêu trên (đại ý: trước hết tôi là người theo chủ nghĩa dân tộc, sau đó tôi mới là người theo chủ nghĩa cộng sản)(3). Những bức thư “cầu thân” mà Hồ Chí Minh gửi cho các Tổng thống Hoa Kỳ Roosevelt và Truman nếu được quan tâm đúng mức thì chắc chắn lịch sử đã đi theo hướng khác.

Viện trợ to lớn và toàn diện của khối Xô viết và Trung Quốc một mặt đã giúp Việt Nam giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, nhưng mặt khác đã biến Việt Nam thành bãi chiến trường giữa hai phe Tư bản và Cộng sản với bao hy sinh xương máu và hận thù giữa người Việt từng đứng ở hai bên chiến tuyến cho tới nay vẫn chưa được hóa giải. Đáng phải suy nghĩ hơn là con đường phát triển của đất nước đã bị ép theo những chuẩn mực và khuôn mẫu của các cường quốc cung cấp viện trợ là Liên Xô và Trung Quốc mà nếu xét về bản chất chế độ xã hội là những quốc gia toàn trị, thiếu vắng dân chủ.

“Cải cách ruộng đất” rồi “Chỉnh Phong” hay “chống nhân văn giai phẩm”, “chống xét lại” hay “Cách mạng văn hóa”, “ Xét thành phần, lý lịch” và “chống diễn biến hòa bình” “không Tây hóa” v.v…mang hơi hướng Bắc Kinh hoặc “cải tạo tư bản tư doanh”, “quốc hữu hóa”, “Hợp tác hóa nông nghiệp”, “công nghiệp hóa XHCN theo hướng đẩy mạnh công nghiệp nặng” v.v…theo mô hình “Tập trung - quan liêu bao cấp” nay đã hoàn toàn thất bại của Liên Xô khiến lòng người ly tán, tài nguyên bị hao kiệt nên đất nước sau nhiều năm vật vã buộc phải tìm lối ra và gần như phải xây dựng lại từ đầu nền kinh tế thị trường với bao mối liên hệ phong phú và tinh tế vốn đã một thời hưng thịnh từ mấy thế kỷ trước đây.

Tưởng rằng giành được độc lập thì dân tộc ta có cơ hội tiến nhanh tiến mạnh về phía trước thế nhưng ngay lập tức chúng ta chưa nhận thức hết được sự tụt hậu ngày một rõ nét về các quyền tự do và dân chủ trong xã hội nếu so với những thành quả đã đạt được thời Cách mạng Tháng Tám 1945 khiến xã hội Việt Nam ngày nay ngày một lún sâu trong cơn khủng hoảng sâu sắc và toàn diện.

Với bản Hiến pháp 1992 chịu ảnh hưởng của Hiến pháp Liên Xô 1977 rất nhiều quyền tự do, dân chủ trước đây đã bị teo dần(4).

Cũng chính vì Liên Xô đã thủ tiêu các quyền dân chủ, tự do của nhân dân đồng thời tăng cường đến mức tột đỉnh thể chế ĐẢNG TRỊ nên sự sụp đổ đã diễn ra(5) không cưỡng lại được ngay trong lòng bộ máy hùng hậu của ĐCS, quân đội, KGB (ủy ban an ninh quốc gia) và trong toàn bộ nền kinh tế Xô Viết khiến các đối thủ phương Tây cũng phải ngỡ ngàng. 

Phải chăng chúng ta cũng muốn đi theo vết xe đổ đó? 

Không, một ngàn lần không! 

Dân tộc này đã đổ quá nhiều xương máu để có được nền độc lập trước các thế lực ngoại xâm và khát vọng của chúng ta là được cùng nhau chung tay xây dựng một Tổ Quốc Việt Nam Thống nhất, Dân chủ, Giàu mạnh, Độc lập,Tự do và Hạnh phúc. Không có ý thức hệ ngoại lai nào có thể làm vật cản mãi mãi trên con đường chúng ta đi khi chúng ta giữ vững nguyên tắc TRUNG THÀNH VỚI QUYỀN LỢI DÂN TỘC. Bản tính yêu tự do hình thành ngàn đời nay sẽ giúp các thế hệ con dân Đất Việt trong thế kỷ XXI này phải tự vượt lên chính mình, vứt bỏ mọi gông cùm của quá khứ để “sánh vai cùng bạn bè năm châu, bốn bể”(6).

Trong bối cảnh quốc tế ngày nay, chúng ta đang ở một vị thế thuận lợi hơn thời “Chiến tranh lạnh “ rất nhiều và không thế lực bên trong hay bên ngoài nào có thể ép buộc chúng ta đi chệch khỏi con đường phát triển độc lập, dân chủ theo xu hướng chung của nhân loại văn minh.

Việc sửa đổi Hiến pháp 1992 thiết nghĩ nên được tiến hành theo con đường sáng mà bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa năm 1946 đã khởi đầu.

CHÚ THÍCH:
(1) Wikipedia. Bộ luật Hồng Đức 
(2) Phạm Gia Minh,Thoát Á mới có thể thoát thân” 
(3)  Archimedes Patti “Tại sao Việt Nam?” (Prelude to America’s Albatros) NXB Đà nẵng.(4) Hoàng Xuân Phú.” Teo dần quyền con người trong Hiến Pháp”.Blog Hoàng Xuân Phú, 18/01/2013(5) Kiến nghị về sửa đổi Hiến Pháp 1992. Bauxitvn.blogspot.com ngày 22/01/2013(6) Hồ Chí minh. Di chúc.

Thăng long- Hà nội   22/1/2013 
Tác giả gửi cho viet-studies  ngày 22-1-13.
Nguồn: Viet- studies

 
-->đọc tiếp...

Thứ Năm, 9 tháng 6, 2011

NỤ CƯỜI VÕ VĂN KIỆT

NỤ CƯỜI VÕ VĂN KIỆT
Phạm Gia Minh

Ai đã từng gặp ông hoặc chỉ mới thấy ông qua báo chí đều có cùng một cảm nhận : ông Sáu Dân có nụ cười thật hiền hậu, rạng rỡ và chân thành. Kể cũng kỳ lạ, một con người mà cuộc đời thật lắm gian truân, từng hứng chịu nhiều nỗi đau tới tột cùng của sự mất mát, một con người vào sinh ra tử và luôn đứng mũi chịu sào trước bao nhiêu sóng gió , bão táp ác liệt nhất của thế kỷ XX mà vẫn luôn nở nụ cười . Phải chăng đó cũng chính là cái chất Nam bộ khảng khái, bộc trực và bao dung;  cái bản lĩnh gan góc, lạc quan của dân tộc Việt  trong gian khó hôm nay mà vẫn nghĩ tới một ngày mai “ hết mưa là nắng hửng lên thôi…” (1), và một khi đã giành thắng lợi sau cuộc chiến ác liệt thì “ súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa…”(2) ?.

Phải là người có Tâm sáng, Trí đầy và Dũng khí như trời, bể mới có được cái thần thái ung dung tự tại và nụ cười như vậy . Ông có những tố chất đó bởi một lý do thật giản đơn nhưng cũng rất sâu xa : 1. luôn giữ vững đức tin vào Dân , 2. xả thân vì Dân, 3. đau nỗi đau của Dân, 4. lo cái lo của Dân, 5. vui cùng Dân, 6. quy tụ được lòng Dân và bởi vậy mãi mãi là “ông Sáu Dân “ với cái ý nghĩa thân thương và trìu mến nhất trong ý niệm của người đời .

Nụ cười nhân hậu đã theo ông tới thăm hỏi, chăm sóc những bà mẹ Việt nam , những trẻ em mồ côi, tật nguyền hay đồng bào đang chịu cảnh thiên tai tàn phá . Nụ cười lạc quan , coi thường gian khó , hiểm nguy đã cùng ông tới tiếp sức cho các kỹ sư, công nhân trên công trường đường dây cao thế Bắc-Nam 500 kv hay đường Trường sơn công nghiệp hóa cùng bao công trình thế kỷ khác. Với nụ cười cởi mở và chân thành ông đã chủ động chìa tay tiếp đón những người Việt  từng ở bên kia chiến tuyến của cuộc đối đầu ý thức hệ khốc liệt và dai dẳng nhất trong thế kỷ XX để thực sự bắt đầu quá trình hòa giải và hòa hợp dân tộc, vì một tương lai chung tươi sáng cho những thế hệ con Lạc, cháu Hồng mai sau. Nụ cười đầy tự tin và rạng rỡ đã cùng ông đưa Việt nam làm bạn với Thế giới trong sự tôn trọng và hữu nghị, bình đẳng.

Ông vẫn giữ nụ cười thẳng thắn, dũng cảm và chân thành khi đấu tranh với những tiêu cực đang len lỏi trong đời sống  xã hội và cả khi đưa ra những phản biện xã hội đầy tinh thần trách nhiệm và tầm nhìn chiến lược đối với nhiều vấn đề quốc kế dân sinh .   

Là người bạn lớn của báo chí , bằng chính tấm gương từ cuộc đời Cách mạng của mình ông đã cho những người làm báo hiểu sâu sắc hơn một nhận định của Các Mác : “ báo chí phải sống trong nhân dân và trung thực chia xẻ với nhân dân niềm hy vọng và nỗi lo lắng của họ, tình yêu và lòng căm thù của họ, niềm vui và nỗi buồn của họ….” và làm sao để báo chí phải đúng là “ tấm gương tinh thần trong đó nhân dân nhìn thấy bản thân mình…”(3)

Sẽ là một nguồn động viên mạnh mẽ và cổ vũ lớn lao đối với báo chí Việt nam thời kỳ Đổi mới nếu có giải thưởng mang tên Võ văn Kiệt!

Thăng Long-Hà Nội 18/11/2008

P.G.M

Chú thích:

(1) Hồ chí Minh. ” Nhật ký trong tù”
(2) Nguyễn đình Thi . “Quê hương Việt nam”.
(3) Các Mác, Ăngghen Toàn tập, Tập I, NXB CTQG 1995 ,tr. 99, 100 .

*Bài viết do TS Phạm Gia Minh gửi trực tiếp cho NXD-Blog.
Xin chân thành cảm ơn tác giả!

Chùm ảnh Nụ cười Võ Văn Kiệt:

Trong số những nhà lãnh đạo, cả Việt Nam và thế giới, Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt là người có gương mặt, mái tóc, ánh mắt và đặc biệt là nụ cười rất đẹp. Nụ cười ấy không chỉ sảng khoái mà còn hào sảng; không chỉ độ lượng mà còn khí phách; không chỉ thân thiện và còn uy nghi. 

TS xin trân trọng giới thiệu một số hình ảnh về nụ cười đặc biệt ấy.
 
Nụ cười hào sảng và rạng rỡ khi đón tiếp các vị khách quốc tế.
Nụ cười ấm áp khi về thăm cán bộ đường dây 500KV, Quảng Nam – Đà Nẵng.
Nụ cười thân thiện và mừng rỡ khi gặp đồng chí đồng đội - các cán bộ lão thành Cách mạng TP.Hồ Chí Minh.
Nụ cười sảng khoái khi tập chụp ảnh.
Nụ cười trẻ trung khi nhảy cùng đội văn nghệ Đăk Lăk.
Nụ cười phấn chấn khi anh em đường dây 500KV hoàn thành nhiệm vụ trọng đại của quốc gia.
Nguồn ảnh: TTXVN


-->đọc tiếp...