Blogger Widgets
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phạm Văn Thắm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phạm Văn Thắm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 8 tháng 10, 2013

ỐI GIỜI ƠI! THẾ NÀY MÀ CŨNG VÁC MẶT ĐI ĐẤU TRANH ĐÒI CHỦ QUYỀN ĐÂY

Ủy ban Biên giới Quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao vừa xuất bản cuốn sách "Tuyển tập các châu bản triều Nguyễn về thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa".

Sách in bằng 4 thứ tiếng (Việt, Anh, Pháp, Hoa) và bản gốc chữ Hán Nôm. Sách được in 2000 bản và in tại Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội, phát hành quý II năm 2013. 



Chủ trì biên soạn là Ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Biên giới quốc gia, thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam. 

Ban biên tập có ba người: Lê Quý Quýnh, Đinh Ngọc Linh và Phạm Văn Thắm.

Ông Phạm Văn Thắm là Tiến sĩ Hán Nôm, đã từng công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (mời chư vị xem lại bài viết về ông Thắm, tại đây).

Một cuốn sách quan trọng, có liên quan đến các châu bản triều Nguyễn về thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vậy mà ngay trang thứ hai của bài Lời Giới thiệu của Ban Biên tập đã sai đến mức nhục nhã như thế này:

"Vua Gia Long tạ thế năm 1819, cháu nội là Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi năm 1820, lấy hiệu là Minh Mệnh".

Thật không thể tưởng tượng được! Một cuốn sách viết về Triều Nguyễn mà lại sai đến như thế này! Vì ai cũng biết Vua Gia Long là VUA CHA của Vua Minh Mệnh (Minh Mạng). 

Đó là chưa kể dùng từ "lấy hiệu là Minh Mệnh" là chưa chính xác. Đúng ra phải là "lấy niên hiệu là Minh Mệnh" vì tên hiệu khác với niên hiệu

Nghiêm trọng hơn, cuốn sách "Tuyển tập các Châu bản triều Nguyễn về thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa". Nhưng những người làm sách không hiểu thế nào là Châu bản, nên đã đưa một văn bản không phải là Châu bản vào cuốn sách này. 

Văn bản Tờ lệnh Lý Sơn, tuyệt nhiên không phải là Châu bản vì nó không có Châu phê (lời phê bằng mực son - màu đỏ của nhà vua). Xin xem các bài về văn bản này:

Ông Phạm Văn Thắm đã đưa nó vào cuốn sách, và đây là bản dịch của ông:

Quá ngu dốt!
Thế này mà cũng đòi vác mặt  đi đấu tranh chủ quyền à? 


Dưới đây là bản Tiếng Anh: Cũng ghi Vua Minh Mệnh là Cháu nội của Vua Gia Long.


Rồi bản Tiếng Pháp: Cũng ghi Vua Minh Mệnh là Cháu nội của Vua Gia Long.


và cả bản Tiếng Trung Quốc: Cũng ghi Vua Minh Mệnh là Cháu nội của Vua Gia Long.


Hú vía, có một mảnh giấy bằng cái lá tre (tương đương hai ngón tay) dính vào trang cuối của cuốn sách để đính chính cho sai sót tầy trời trên. 

Đính chínhcũng sai luôn.
"Cháu nội" = "Con là" thì sẽ đọc thành:
"Vua Gia Long tạ thế năm 1819, con là là Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi năm 1820, lấy hiệu là Minh Mệnh".  

Thừa một chữ "là".
 
Nhưng mà, hỡi ôi! chỉ đính chính cho phần tiếng Việt mà thôi!
Sách in bằng 4 thứ tiếng, tức là in cho Tây cho Tàu nó đọc mà làm như thế này, thì quá nhục!


Sách in 2000 bản, ghi rõ ở bìa 4 là SÁCH KHÔNG BÁN. Như vậy sách này do nhà nước bỏ tiền để biên soạn và in ấn, và chủ yếu để biếu tặng trong các hoạt động đối ngoại.
 
Sáng nay, ngày 7 tháng 10 năm 2013 tôi đã sang tận 53 Nguyễn Du để gặp ông Chu Hảo - GĐ Nhà xuất bản Tri thức là nơi in cuốn sách này để hỏi xem vì đâu nên nỗi.

Giáo sư Chu Hảo cho biết rằng: Từ trước đến nay, cứ những cuốn sách về chủ quyền quốc gia là đều phải chuyển sang Ủy ban Biên giới Quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao để thẩm định mới được phép in. Cuốn sách "Tuyển tập các châu bản triều Nguyễn về thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" do Ủy ban Biên giới Quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao tổ chức biên soạn, nên bản thảo đưa sang, nhà xuất bản phải tuyệt đối tôn trọng bản thảo và in đúng như bản thảo. 

Ủy ban Biên giới Quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao đã sử dụng tiền thuế của nhân dân để lo một việc trọng đại của quốc gia, vậy mà những người thừa hành lại dốt nát và làm ăn tắc trách như thế này, quả là không chấp nhận được. 

Tôi đề nghị Bộ Ngoại giao sớm ra lệnh thu hồi toàn bộ số sách đã phát hành (biếu tặng), không cho lưu hành và lưu trữ cuốn sách đáng xấu hổ này. Tiếp theo, nếu vẫn muốn lưu hành trở lại thì phải hủy bỏ các trang có sai sót trên và thay bằng trang giấy cùng loại và đã được sửa lỗi. Đặc biệt, phải loại văn bản tờ lệnh Lý Sơn ra khỏi cuốn sách thì mới đảm bảo khoa học.

"Các hãng xe hơi Toyota, Nisan...chỉ một lỗi nhỏ họ còn thu hồi hàng triệu xe đã bán để xử lý, huống hồ đây lại là tài liệu về lịch sử, về biên giới lãnh thổ, về quốc gia và danh dự dân tộc mà lại kẹp "đính chính" bẩn đến như vậy"(Độc giả Người Hà Nội).

Hà Nội, ngày 7.10. 2013
  Nguyễn Xuân Diện

-->đọc tiếp...

Thứ Năm, 8 tháng 8, 2013

CHUYỆN QUANH BẢN DỊCH TỜ LỆNH PHÁT HIỆN Ở ĐẢO LÝ SƠN

Bàn thêm về Phạm [Văn Thắm] tiên sinh
Lời dẫn của Lâm Khang chủ nhân: Tễu blog đăng lại bài này từ Blog Yêu Hán Nôm của Nguyễn Đức Toàn, vì bài này có nhắc đến bản dịch chung của Lâm Khang chủ nhân và Nguyễn Đức Toàn công bố trên báo Thanh Niên ngày 10.4.2009 - bản dịch mà ông Phạm Văn Thắm lu loa khắp nơi rằng dịch sai đến 90 %. 

Nhớ lại hồi cuối tháng 3 năm 2009, khi có tin Lý Sơn phát hiện văn bản Hán Nôm quý có liên quan đến việc khẳng định chủ quyền của VN tại Hoàng Sa, tôi đã rất quan tâm. Lại được TS Nguyễn Đăng Vũ (khi ấy là PGĐ Sở VH TT và DL) gửi cho bốn tấm ảnh chụp 4 trang văn bản đó. Tôi và Nguyễn Đức Toàn cùng dịch. Rồi chỉ mấy ngày sau, ngày 10.4, gia tộc họ Đặng quyết định hiến tặng cho nhà nước văn bản đó để làm tài liệu đấu tranh với Tàu. Tôi bỏ tiền túi mua vé máy bay đi Đà Nẵng rồi vào Lý Sơn mấy ngày - cùng đi có PV. Chiến Thắng của báo Lao động, muốn tận mắt thấy và tự mình giám định văn bản đó (kết quả sẽ làm chỗ dựa cho báo chí khi đăng tải). Chư vị có thể xem hình ảnh của chuyến đi, bản dịch và bài khảo cứu có liên quan tại các links sau: 





Vì văn của Thạc sĩ Nguyễn Đức Toàn đượm mùi cổ kính, hơi khó hiểu đối với người không quen đọc cổ văn nên Lâm Khang tôi tạm diễn giải và đính kèm ở cột bên phải. Ngoài ra tôi không có bình luận nào, xin nhường việc bình luận cho chư vị độc giả. Chuyện về ông nghè Phạm Văn Thắm (nguyên Trưởng phòng, nguyên Bí thư chi bộ Viện Hán Nôm) còn nhiều, lúc nào rảnh rỗi, lại xin hầu chuyện chư vị nữa.
  

NGUYÊN VĂN 

 

Bàn thêm về Phạm tiên sinh
Đồ Nghệ 

Phạm tiên sinh, biểu tự ý Son. Vốn cao nhân bổn Viện trí sĩ đã lâu.


Xưa gặp buổi Trung – Việt đối đầu, nghề Trung văn bất lợi. Mộc ân Thánh hóa, bổn viện sáng tân. Các cựu nho thạc học hết dần. Tân chế bài phong kiến, bức cựu học muôn phần. Phu thê đồng nhập Hàn các. Cũng là người trí thức hiền hòa quân tử ở đời, sống chân thành mộc mạc đã quen. Nơi rừng văn múa bút mấy phen; Gặp cội Đào cứng lòng giữa gió. Cũng có vết tích lưu truyền sử ký.





Gần đây, Trung – Việt đông hải dương ba. Những ngờ đời đôi phen sóng gió. Nhưng mệnh trời chẳng bỏ. Cựu thần trí sĩ, văn hiến ích chương. Được Lễ bộ thỉnh vào Tu toản. Sự biển đảo chửa từng qua, nhưng chữ nghĩa hằng xém mặt. Này công trình, nọ dự án. Cũng dự ngồi trung quỹ văn chương. Hành tẩu ngoại phương, ra chiều công cán. Khi phát biểu, khi bàn tán. Cửa Học viện cũng giáng nêu danh. Tỏ ý đua ghanh, phần tôi đúng nhất.







Dân tình bấy giờ để ý đến tài liệu Biển Đảo đã lâu không nhắc tới. Vì sự lãnh thổ chủ quyền ai nấy cũng muốn phát ngôn. Này giáo khoa thư trích dẫn. Kìa bản đồ cổ đề dâng. Đảo Lí Sơn họ Đặng tưng bừng, đem gia bảo nâng làm quốc bảo. Tờ bằng xưa cấp cho cụ tổ, dịp sóng cường quốc tế dâng lên. 

Bản Viện tôi cũng có một tên. Chưa ra dáng nhưng ông Nghè đỗ chắc. Tài văn hay đã nổi hai miền. Thương việc nước mà đau lòng vì nước. Nghĩ quốc bảo còn ở trong dân. Nên cố gắng mua vé đường gần. Bay 1 chuyến Lí Sơn trực đến, bản thảo về tay. Ngẫm văn tài cũng lắm người hay, một mình gánh việc nước cũng gay. Nên triệu tôi cùng ngồi thẩm luận. Hai vai đồng đối. Nghĩ sự lạ Cát Vàng cũng rối. Tôi đây cũng lắm mối mà hóa không. Vậy thì cùng đọc luận cho thông, để mà tường cái rối bời của thiên hạ. Bài dịch gửi báo, láo nháo 2 tên. 


Phạm tiên sinh lại động nỗi niềm. Đem tâm sự tuyên truyền khắp chốn. Nào dịch sai dịch dở. Nào lỗ mỗ ngắt câu. Mới thoáng nghe thực rất đau đầu. Chung quy lại 90 phần sai toét. 

Tai nghe miệng Tiên sinh sổ toẹt. Vội gấp hỏi sai những ở đâu. Phong Văn Tư cụ cũng lắm màu. Chỉ tủm tỉm chữ Khâm chưa được. Hai bên lảng lảng, sai nói bâng quơ. Nhìn nhau mắt những hững hờ. Chuyện béo bở những đâu im tiệt. Giấu chờ xôi chín oản đóng thành khuôn. Phần ai suất nấy, nào dám tơ hào. Nhưng bực cái thói vu phao, giữ phần cho chặt. Đồ Nghệ ta sai là chuyện vặt, mà phải đích danh. Ghét cái sự vòng quanh, sau lưng đưa hớt.

Chuyện cũ gác qua nay đà sách đến. Vạch mặt hỏi tên, chữ nghĩa đôi bên cho tường hư thực. Dẫn lại lời dịch cho kèm nguyên văn.

BẢN DIỄN GIẢI ĐỂ DỄ HIỂU HƠN

 

Bàn thêm về Phạm tiên sinh
Đồ Nghệ

 

Phạm tiên sinh tên Thắm (Tiến sĩ Phạm Văn Thắm), vốn là cán bộ của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, về hưu cũng đã lâu.


Trước đây, khi Trung – Việt còn đối đầu, người tốt nghiệp ngành Trung văn đều bất lợi. Nhờ chính phủ quan tâm, thành lập ra Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Khi ấy, các nhà Nho lão thành uyên bác thưa dần mà việc bài bác phong kiến cũng làm nghẹt cựu học lắm. Hai vợ chồng Phạm tiên sinh đều về làm việc tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Tiên sinh cũng là người trí thức hiền hòa quân tử, có lối sống chân thành mộc mạc. Nơi rừng văn múa bút cũng trải mấy phen, có thư hùng một trận với ông Đào Thái Tôn, thành ra câu chuyện lưu truyền trong giới nghiên cứu.

Gần đây, Trung – Việt lại dậy sóng Biển Đông. Tưởng chừng chữ nghĩa yếu như thế, lại đã no đòn như vậy thì cũng không đoái hoài nữa, lại là một cán bộ từng giữ chức bí thư chi bộ đã nghỉ hưu. Nhưng mà vẫn được Bộ Ngoại giao mời đến, giao cho việc sưu tầm biên soạn chỉnh lý tài liệu. Việc nghiên cứu về tư liệu biển đảo chưa từng làm qua, mà chữ nghĩa cũng dốt nát từng bị mắng đến xém mặt. Này công trình, nọ dự án, lại cũng ngồi trong quỹ nọ quỹ kia, đi nước này nước nọ ra chiều bôn tẩu công cán lắm! Khi thì đứng lên phát biểu, lúc cũng lớn tiếng lạm bàn. Phạm tiên sinh cũng đã từng được mời làm giảng viên của Học viện Khoa học xã hội Việt Nam. Trong luận bàn, tuy Phạm tiên sinh ù lỳ về tư duy, vẫn cứ có ý đua ganh cho mình là nhất.

Nay, dân tình đang để ý đến tài liệu biển đảo từng nằm im trong các thư viện, ai cũng muốn phát ngôn về chủ quyền lãnh thổ. Nào trích dẫn giáo khoa thư. Nào hiến tặng bản đồ cổ. Họ Đặng ở đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) vui mừng đem hiến dâng cho nhà nước tờ bằng cấp, để từ một của gia bảo thành ra một quốc bảo.

Viện tôi có một anh tiến sĩ  - tài văn ầm ĩ khắp hai miền – thương việc nước mà đau lòng vì nước, nghĩ rằng quốc bảo còn ở trong dân nên đã tự bỏ tiền mua vé máy bay vào Lý Sơn để tận mắt trông thấy văn bản đó. Về, anh ấy mời tôi cùng thảo luận và giám định văn bản. Hai anh em cùng ngồi dịch với nhau. Xong thì gửi đăng báo, ghi tên cả hai chúng tôi.






Phạm tiên sinh lại động nỗi niềm, mới đưa chuyện khắp nơi rằng chúng tôi nào dịch sai, dịch dở, nào là ngắt câu lỗ mỗ rồi kết luận rằng bản dịch dịch sai đến 90 %.

Tôi, tai nghe Phạm tiên sinh sổ toẹt bản dịch, bèn hỏi sai ở chỗ nào. Cụ Phong Văn Tư thì chỉ cười tủm tỉm bảo dịch chữ “Khâm” như thế là chưa được. Tôi với Phạm Văn Thắm tiên sinh thành ra nhìn nhau như người xa lạ. Sau đó, Phạm tiên sinh kiếm được cái dự án béo bở ở Bộ nọ, chuyện đó cũng giấu biệt đi chẳng nói với ai. Xôi đã đóng thành oản, xôi mình mình giữ, oản mình mình ăn. Tôi là dân Nghệ rất ghét cái sự loanh quanh, hớt lẻo sau lưng.

Chuyện bẵng đi đã lâu, nay sách đã ra. Bèn vạch mặt hỏi tên, rồi xem từng chữ nghĩa đôi bên cho rõ hư thực xem thế nào. Thì đây, nguyên văn như thế này:



Đối chiếu so sánh hai bản dịch:
.

Bản dịch của Nguyễn Đức Toàn – Nguyễn Xuân Diện
 
Bản dịch của Bộ Ngoại giao
Quan Án sát và Bố chánh tỉnh (Quảng) Ngãi làm việc cấp bằng này. 

Chiếu theo tháng trước tiếp được công văn của bộ Binh, vâng sắc (triều đình) cho bộ ấy trước là phải thi hành việc tuyển chọn, trưng tập 3 thuyền, sửa sang bền chắc, đợi sẵn ở kinh. Các phái viên và lính thủy đi trước để cùng thám sát các vùng của xứ Hoàng Sa. 



Nhân kính theo đó mà xem xét và tuyển chọn trong tỉnh 3 thuyền tốt, cùng với đó là các vật dụng được tu bổ vững chắc, lại chọn ra tên Võ Văn Hùng – đã được cử đi từ năm trước và chọn thêm những dân phu ven biển thạo đường biển để sung làm thủy thủ trên thuyền. Cốt yếu là phải chọn mỗi thuyền 8 tên, tổng cộng là 24 tên, cứ đến hạ tuần tháng Ba thì thuận theo thời tiết mà đi.


Nay, nhân các việc đã xong xuôi, các phái viên đã đi lê thuyền đến; chọn thủy thủ giỏi mà Võ Văn Hùng đã tuyển chọn là bọn Đặng Văn Siểm có thể đảm nhận công việc lái thuyền. Nhân đấy mà cấp cho bằng này để đi một thuyền dẫn các thủy thủ trên thuyền theo quân của phái viên và Võ Văn Hùng cùng đến Hoàng Sa thi hành việc công.



Đường biển ấy là nơi quan yếu, phải dốc sức mà thừa hành để cho công việc được mười phần trọn vẹn. Nếu bất cẩn, sẽ phạm trọng tội.



Các người có trách nhiệm kê ở dưới đây. Vậy nên có bằng cấp này.
Trở lên là bằng cấp.
Đà công Đặng Văn Siểm người phường An Hải huyện Bình Sơn và Dương Văn Định, người thôn Hoa Diêm theo đây mà thi hành.
 Kê:
Thủy thủ:
Tên Đề - Phạm Vị Thanh, An Vĩnh phường;
 Tên Sơ - Trần Văn Kham, An Vĩnh phường;

Tên Lê - Trần Văn Lê, Bàn An ấp; thuộc đội súng ống, 2 tên.
 Vũ Văn Nội,
Tên Trâm - Ao Văn Trâm, Lệ Thủy Đông hai tên
Tên Xuyên - Nguyễn Văn Mạnh, An Hải phường
Tên Doanh - Nguyễn Văn Doanh, Mộ Hoa huyện, An Thạch, Thạch Than thôn
Trương Văn Tài
Minh Mệnh năm thứ 15 (1834), tháng Tư, ngày 15.[1]

Quan Bố chính, Án sát tỉnh [Quảng] Ngãi căn cứ vào việc cấp bằng.

Theo tờ tư1 của bộ Binh nhận được tháng trước có đoạn trình bày: Vâng theo sắc lệnh2 [của nhà vua], bộ đã tư [cho tỉnh] chuẩn bị điều động trước ba chiếc thuyền lớn3, cho tu sửa chắc chắn đợi tại kinh, Phái viên4 và Biền binh5 thủy quân đến trước để hiệp đồng nhanh chóng đi khảo sát các xứ của Hoàng Sa. Hãy tuân mệnh.

[Kính vâng theo, tỉnh thần6] làm lễ cầu khấn7, [sau đó], điều động, thuê ba chiếc thuyền nhanh, nhẹ ở tỉnh cùng các vật kiện theo thuyền, mỗi loại đều cho tu bổ [cẩn thận]. Lại phái Vũ Văn Hùng, người được cử đi năm trước và chọn thêm dân phu miền biển am hiểu đường biển sung làm thủy thủ phục vụ trên thuyền trước sau, mỗi thuyền 8 người cộng 24 người, [đến] mùa từ hạ tuần tháng 3 thuận gió, thì nhanh chóng cho thuyền ra khơi.


Nay các việc lo liệu xong xuôi, Phái viên đã đi thuyền đến. Nay căn cứ vào các lý lẽ tuyển lựa của Vũ Văn Hùng [là] phù hợp, [tỉnh thần] thực hiện cấp bằng cho những thủy dân thạo đường biển là bọn Đặng Văn Xiểm đảm đương công việc lái thuyền, [bọn Đặng Văn Xiểm] hãy đi trên một chiếc thuyền, dẫn theo thủy thủ trong đoàn theo Phái viên, Biền binh và Vũ Văn Hùng đến Hoàng Sa thực hiện công vụ.


Chuyến đi này có tầm quan trọng đặc biệt, các người phải dốc lòng thực hiện công việc cho thực sự thỏa đáng. Nếu sao nhãng, sơ xuất tất bị trọng tội.

Tất cả số người bao nhiêu đều liệt kê dưới đây. Các người lái thuyền là bọn Đặng Văn Xiểm, người phường An Hải huyện Bình Sơn, Dương Văn Định người thôn Hoa Diêm được cấp bằng trên đây chiểu theo thi hành.

Ngày 15 tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 15 (1834)
Thủy thủ:
Tên Đề Phạm Vị Thanh, người phường An Hải
 Tên Trâm Ao Văn Trâm, người Lệ Thủy Đông (hai tên)
 Tên Sơ Trần Văn Kham, người phường An Vĩnh
 Tên Xuyên Nguyễn Văn Mạnh, người phường An Hải
 Tên Lê Trần Văn Lê, người ấp Bàn An
 Tên Doanh Nguyễn Văn Doanh, người thôn Thạch Ốc An Thạch huyện Mộ Cách.
 Từ đội Kim Thương đưa sang hai tên
Vũ Văn Nội
 Trương Văn Tài

Vốn chúng tôi còn có Phiên âm, ngắt câu cũng lỗ mỗ. Chả dám đưa lên mà lại phiền đến Tiên sinh chỉ giáo. Ai muốn tỏ thì lên đây thời rõ.http://www.lyson.org/t53-topic
Chú thích:
1-       Tư : thuật ngữ chỉ một loại hình văn bản hành chính dành cho các quan. Các quan sử dụng loại văn bản này để truyền đạt công việc như dạng công văn ngày nay.
2-       Sắc : thuật ngữ chỉ một loại hình văn bản hành chính chuyên dành cho nhà vua. Nhà vua sử dụng loại văn bản này để ban mệnh lệnh yêu cầu quần thần phải thực hiện một công việc nào đó.
3-       Chinh thuyền: một loại thuyền lớn chuyên dùng cho việc đi tuần nơi biển khơi xa xôi.
4-       Phái viên: người được triều đình cử đi thực hiện công vụ
5-       Biền binh: chức quan võ cấp thấp trong quân đội thời phong kiến
6-       Tỉnh thần: tên gọi chung cho các quan làm việc ở tỉnh. Ở đây chỉ quan Bố chính và Án sát.
7-       Kỳ : thuật ngữ trong tế lễ. Xét ở góc độ từ loại, kỳ () là động từ thì mang nét nghĩa cầu mong, kỳ () là danh từ thì mang nét nghĩa là một loại hình thức tế lễ cầu khấn. Từ kỳ () xuất hiện trong văn bản hành chính, mang nét nghĩa tế lễ cầu khấn, điều này phù hợp với các tập tục của người dân vùng biển, trước khi đi biển bao giờ họ cũng làm lễ cầu khấn, mong sự bình yên trước khi ra khơi.[2]


Nhưng các vị biên tập giả nhầm, cái này không phải Châu Bản mà là Bằng cấp của Tỉnh cho cụ tổ họ Đặng. Chẳng có 1 chữ Châu phê nào hết. hi hi !!!



[1] http://www.lyson.org/t53-topic; Tễu – Blog; ...
[2] Bộ Ngoại Giao/ Ủy ban Biên giới Quốc gia. Tuyển tập các Châu bản triều Nguyễn về thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nxb Tri thức Hà Nội 2013.
trang 94-100
Nguyên văn ảnh trong sách mới ra:

trang 94
95
96
98
97
99
100
Còn văn bản thứ 18 trang 188, cũng có chữ Sắc tỏ ý vua ban. Phạm tiên sinh không chú thích nữa. 
188
189
191


-->đọc tiếp...