Blogger Widgets
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thể thao và Văn hóa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thể thao và Văn hóa. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 2 tháng 7, 2013

VÌ SAO THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM PHẢI GỠ VIDEO CLIP CỦA CLB ARSENAL ?

Ngay giây thứ 4, cái clip chính thức của CLB Arsenal về chuyến du đấu tới Việt Nam và một số nước đã không có hình ảnh Hoàng Sa - Trường Sa!
ĐÃ DẤY LÊN LỜI KÊU GỌI TẨY CHAY CHUYẾN DU ĐẤU CỦA CLB ARCENAL
Vừa qua, Liên đoàn Bóng đá Việt Nam đã có công văn gửi CLB Arsenal, yêu cầu sửa đổi clip quảng cáo cho chuyến du đấu châu Á của Arsenal hè 2013 vì trong clip có sử dụng bản đồ Việt Nam ko đúng (cụ thể là bản đồ Việt Nam không có Hoàng Sa và Trường Sa).

Tuy nhiên, trong clip quảng cáo chính thức mà CLB Arsenal đưa ra trong tuần này, bản đồ Việt Nam vẫn không có hai quần đảo nói trên.

Hiện nay, đã có lời kêu gọi mọi người và nhất là các tín đồ bóng đá cùng tẩy chay CLB Arsenal, cùng chung tay bảo vệ biển đảo của Việt Nam, chống lại bất cứ một hành động đưa thông tin sai lạc về chủ quyền của đất nước trên Biển Đông.
Đề nghị Liên đoàn Bóng đá Việt Nam tiếp tục yêu cầu Arsenal sử dụng bản đồ đúng của Việt Nam với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Cùng trong ngày hôm nay, báo điện tử Thể thao & Văn hóa cũng có đăng video clip của CLB Arsenal 2013 với tiêu đề: "Video Arsenal chính thức công bố clip làm nóng cho chuyến du đấu tại Việt Nam". 
Nhưng không hiểu vì lý do gì, bài này đã bị gỡ sau vài giờ:
http://thethaovanhoa.vn/tin-multimedia/video-arsenal-chinh-thuc-cong-bo-clip-lam-nong-cho-chuyen-du-dau-viet-nam-n20130702114927237.htm
Cập nhật lúc 18h55: 
CLB Arsenal đã thay bản đồ Việt Nam (không có Hoàng Sa, Trường Sa) bằng lá cờ đỏ sao vàng. Tuy nhiên, cho đến tận chiều nay, bản tin Thể thao Văn hóa của Thông tấn xã Việt Nam vẫn sử dụng clip cũ của CLB. Như vậy, báo chí (do nhà nước mà cụ thể là Ban Tuyên giáo kiểm soát) chính là nơi phát tán clip với thông tin không đúng về chủ quyền quốc gia.

Việc gỡ bỏ đoạn video clip nói trên của Thế thao & Văn hóa (cơ quan thuộc Thông tấn xã Việt Nam) mà không một lời đính chính hoặc giải thích cho thấy cơ quan này coi thường độc giả, khán giả và cách làm báo của cơ quan báo chí đặc biệt này rất thiếu chuyên nghiệp.
-->đọc tiếp...

Thứ Ba, 18 tháng 6, 2013

LÀNG CỔ ĐƯỜNG LÂM: SẼ "CƯA NGỌN" NHÀ CAO TẦNG?

Làng cổ Đường Lâm: 
Sẽ dần 'cưa ngọn' nhà cao tầng? 

(Thethaovanhoa.vn) - Cải tạo lại những nhà 2 tầng (khu vực 1) và 3 tầng (khu vực 2), đồng thời có những quy định đặc thù về không gian làng, đường đi, cảnh quan chung... của Đường Lâm - đó là những nội dung chính trong dự thảo Quy hoạch bảo tồn, tôn tạo và phát triển ngôi làng cổ này.

Bản đề án này do Viện Bảo tồn Di tích xây dựng và được Sở VH,TT&DL Hà Nội tổ chức đưa ra lấy ý kiến các chuyên gia, bộ ngành liên quan trong sáng 13/6. Bên cạnh các vấn đề về tôn tạo, bảo tồn, đề án còn đưa ra những quy định bắt buộc về quản lý, xây dựng nhà ở của các hộ dân trong vùng di tích. Vài tháng trước, vấn đề này đã đưa Đường Lâm trở thành "điểm nóng" của dư luận, với việc hàng chục hộ dân đề nghị trả lại danh hiệu Di tích Quốc gia vì bị... hạn chế xây nhà.

Ưu tiên bảo tồn "vùng lõi" 10%

Trong hàng ngàn ngôi nhà tại Đường Lâm, số nhà cổ có giá trị chỉ chiếm chưa đầy 10% và nằm rải rác theo kiểu "xôi đỗ". Do vậy, trong toàn bộ 164 ha của di tích này, 16,4ha diện tích thôn Mông Phụ - nơi có nhiều nhà cổ nhất - đã được khoanh vùng thành khu vực bảo tồn cấp 1. Bốn thôn còn lại (Cam Thịnh, Đông Sàng, Đoài Giáp, Cam Lâm) được xác định là vùng bảo tồn cấp 2, với vai trò ít quan trọng hơn và có giá trị như một vùng đệm quanh phần di tích chính yếu. 

Như lời của ông Lê Thành Vinh (Viện trưởng Viện BTDT), việc bảo tồn toàn bộ diện tích Đường Lâm là điều không tưởng trong điều kiện hiện tại. Do vậy, bản đề án tập trung đưa ra các giải pháp để bảo tồn tối đa khu vực 1 và các nhà cổ nằm ở 4 thôn còn lại, đồng thời có thêm những  biện pháp để bảo vệ và giữ được không gian đặc trưng của toàn bộ làng cổ này.
Nhà 3 tầng ở làng cổ Đường Lâm
Cụ thể, toàn bộ 400 ngôi nhà tại Mông Phụ sẽ được khảo sát kỹ và phân thành 4 loại: nhà cổ còn giữ được tổng thể (loại 1), nhà cổ đã xây mới một số công trình phụ như bếp vườn, cổng (loại 2), nhà hiện đại đã xây cao 2, 3 tầng (loại 3) và nhà hiện đại nhưng chỉ có 1 tầng (loại 4).

Theo cách xếp loại này, các ngôi nhà thuộc 2 loại đầu tiên sẽ được nghiên cứu hỗ trợ để bảo tồn nguyên trạng hoặc khôi phục đủ các giá trị gốc. 2 loại nhà còn lại (chiếm tỷ lệ lớn) sẽ dần được “cưa ngọn”, cải tạo lại thành nhà 1 tầng, có độ cao dưới 7,2m và tuân thủ các quy định về thiết kế, màu sơn, vật liệu xây dựng.

Tương tự, tại phần diện tích còn lại của Đường Lâm, những ngôi nhà cổ còn giữ được nguyên gốc (giống như loại 1 tại Mông Phụ) sẽ được hỗ trợ bảo tồn nguyên dạng. Những ngôi nhà cổ  không còn nguyên gốc hoặc nhà hiện đại được phép cải tạo lại thành nhà 1 hoặc 2 tầng (chiều cao tối đa 10,5 mét) theo tiêu chuẩn về thiết kế, vật liệu xây dựng. Những ngôi nhà 3 tầng hoặc có chiều cao vượt khỏi tiêu chuẩn này sẽ được điều chỉnh lại để đảm bảo cao độ chung.

Ngoài số nhà cổ, các di tích trong vùng cũng sẽ được tiến hành bảo tồn, tôn tạo. Đó là 9 di tích đã được xếp hạng (đình Mông Phụ, Cam Thịnh, đền Phùng Hưng, đền Ngô Quyền…) và 56 di tích chưa được xếp hạng (6 giếng cổ Mông Phụ, đình Đông Sàng, đền bà chúa Mía…). 6 di tích đã bị xuống cấp hoặc không còn tồn tại như cổng làng Cam Thịnh, cổng làng Cam Lâm, cầu ngói qua sông Tích... sẽ được nghiên cứu tôn tạo sau này.

Không dễ triển khai?

Với việc bảo tồn được không gian đặc trưng, đồng thời tạo điều kiện xây dựng, phát triển nơi ở (xây nhà 2 tầng) cho những hộ dân thuộc khu vực 2, đề án trên nhận được sự đánh giá tương đối tốt của các chuyên gia về di sản. Một số ý kiến bổ sung chủ yếu nhắc tới việc bảo tồn thêm một số chi tiết của làng cổ như điếm canh, lũy tre, ao làng; đưa thêm quy định về các nhà mặt đường trong khu vực 2, hoặc điều chỉnh, nới rộng khu vực 1 để "ôm" thêm một vài di tích sát đó như lăng Ngô Quyền, đền Phùng Hưng...

Nhưng để trở thành hiện thực, dự án trên sẽ cần tới một khoản kinh phí rất lớn - được dự đoán là sẽ vượt xa con số ước tính 500 tỷ đồng ban đầu. Quan trọng hơn, việc điều chỉnh lại độ cao của các ngôi nhà trong làng cổ, cũng như việc khuyến khích người dân cải tạo nhà theo thiết kế, vật liệu xây dựng... liệu có dễ dàng nếu nhìn lại câu chuyện cũ trong 2 tháng trước?

“Chúng ta phải nói thẳng với nhau: lãnh đạo Hà Nội đã có sai sót nghiêm trọng khi không sớm điều chỉnh và để làng cổ Đường Lâm rơi vào tình trạng mà báo chí đã phản ánh vừa qua” - GS Phan Huy Lê (Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN) nói. “Nghĩ được như thế, hãy chấp nhận rằng việc quy hoạch bảo tồn Đường Lâm sẽ đối diện với rất nhiều khó khăn trong việc vận động người dân”.

Tương tự, PGS Đặng Văn Bài (Phó Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa VN) nhắc tới việc các ngành liên quan nên tổ chức tìm giải pháp để người dân Đường Lâm thật sự có nguồn thu từ du lịch, qua đó tự nâng cao ý thức bảo vệ di sản của mình.

Thậm chí, vì lo ngại ảnh hưởng tới nguyện vọng hiện đại hóa nhà ở của các hộ dân, TS Lưu Minh Trị (Chủ tịch Hội Di sản văn hóa Thăng Long) đề nghị có sự mềm dẻo khi áp dụng nguyên tắc xây dựng tại khu vực 1. Theo ông Trị, trong trường hợp không nằm ở mặt đường, các ngôi nhà trong khu vực này vẫn chỉ được xây một tầng, nhưng có thể... nới thêm độ cao so với quy định 7,5 m).

Nhất quyết không thể xây nhà 2 tầng tại Mông Phụ 
Tham luận gửi tới hội thảo của GS Nhật Bản Hiromichi (từng tham gia xây dựng các đề án tôn tạo Đường Lâm cách đây 10 năm) có nhắc tới đề xuất vào năm 2005. Theo đó, phía Nhật Bản đề nghị nghiên cứu đưa thôn Cam Thịnh vào diện bảo tồn cấp 1 (cùng với Mông Phụ), đồng thời sẽ bổ sung các địa điểm như chùa Mía, đền Phùng Hưng... trong thời gian sau. Ở thời điểm này, số nhà 2 tầng ở Cam Thịnh vẫn còn rất ít. 

“Đề xuất này không thành hiện thực. Kết quả, Cam Thịnh bây giờ đã mọc lên rất nhiều ngôi nhà 2, 3 tầng và gần như không còn khả năng đưa vào vùng bảo tồn số 1 nữa. Nhắc lại chuyện cũ, tôi muốn lưu ý, nếu các bạn nới lỏng quy chế và cho phép xây nhà 2 tầng tại Mông Phụ, ngôi làng cổ này sẽ bị phá hỏng rất nhanh trong thời gian gần” - GS Hiromichi viết.


Tin bài liên quan:  



-->đọc tiếp...

Thứ Hai, 22 tháng 4, 2013

THÔNG TIN MỚI NHẤT VỀ HAI ĐẠO BÙA VÀ MỘT HÒN ĐÁ THỀ Ở ĐỀN HÙNG


Lời dẫn: Các nhà báo vừa đi Đền Hùng về cho biết hiện hòn đá lạ - đạo bùa (bùa 1 - ảnh trên) vẫn còn ở nguyên vị trí cũ. Theo thông tin mà ông Nguyễn Tiến Khôi - cựu GĐ BQL Khu di tích Đền Hùng thì hòn đá bùa này để trấn yểm một viên gạch (bùa 2) mà gián điệp Nguyên Mông dùng để yểm đền Hùng. Ông này cũng cho biết, viên gạch của quân Nguyên có mấy chữ "Đánh đổ đức sáng Vua Hùng" hiện lưu giữ tại Bảo tàng Hùng Vương. Nhiều nhà báo đã kéo đến Bảo tàng để tận mắt thấy đạo bùa đó, xem những chữ viết trên đó là chữ Hán, chữ Nôm hay chữ Nguyên Mông nhưng cán bộ bảo tàng kiên quyết không cho xem và nói viên gạch đã bị hỏng (?). 

Trong một câu chuyện khác, hòn đá thề, được dựng giữa trời đất để chứng nhận lời thề của An Dương Vương khi được vua Hùng truyền ngôi  thì đã bị biến thành hiện vật của Bảo tàng và thay vào đó bằng một cột đá mã não.

Bài trên Thể thao & văn hóa:

Từ 'đá lạ' tới 'đá thề'! 

(Thethaovanhoa.vn) - Giỗ Tổ Hùng Vương 2013 đã kết thúc sau lễ dâng hương vào hôm qua (10/3 Âm lịch). Trang trọng, xúc động và thu hút gần 3 triệu lượt khách hành hương, khó có thể bảo rằng ngày hội tri ân tổ tiên của người Việt không thành công được như mong đợi từ cộng đồng.

1. Sẽ là trọn vẹn, nếu như trong những ngày hướng về đất Tổ, dư luận không tìm ra sự xuất hiện của một “hòn đá lạ” ngay trong lòng đền Thượng - nơi diễn ra nghi lễ dâng hương mọi năm.Theo như những gì được phản ánh, đó là hòn đá cao gần nửa mét, có chạm khắc chữ Phạn, chữ Hán và đủ thứ kí tự lạ lùng. Báo giới hì hục săn tìm xuất xứ của “đá lạ”, kèm theo dư luận về hàng loạt giả thiết... động trời - cho tới khi Ban Quản lý đền Hùng thừa nhận: Hòn đá ấy đã được đặt ở đây từ 2 năm trước.

Rồi, câu chuyện lại càng li kì hơn, khi vị Trưởng Ban Quản lý cũ (đã nghỉ hưu) tiết lộ: khi tu sửa đền Thượng, người ta phát hiện tại đây một lá bùa đặc biệt. Theo nghiên cứu, lá bùa đó được... gián điệp của quân Nguyên Mông lén đặt vào đền Hùng từ thế kỉ 13, với mục đích trấn yểm, xô ngã nước Đại Việt sau thất bại trong 3 lần xâm lược trước đó. Bởi thế, hòn đá lạ này được một doanh nghiệp cung tiến để biến thành lá bùa... yểm ngược lại lá bùa cũ - vốn đã bị phát hiện và... mang về  bảo tàng gần đó.

Kèm theo lời giải thích ấy, lãnh đạo địa phương cũng đưa ra lời hứa... tổ chức hẳn một hội thảo khoa học để quyết định số phận “đá lạ” sau giỗ Tổ. Khi đó, hệ thống kí tự, tính chất, vị trí đặt hòn đá này... sẽ được mang ra phân tích kĩ để có thể đưa ra một quyết định cuối cùng.
Rước kiệu lên Đền Thượng trên đỉnh Nghĩa Lĩnh trong buổi Lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng - Ảnh Thanh Tùng/TTXVN
2. Tạm bỏ qua những tranh cãi ở góc độ tâm linh, câu hỏi đặt ra: Nếu quả thật hướng tới ước vọng mang lại may mắn an lành cho vùng đất Tổ và con cháu vua Hùng, việc đặt “đá lạ” tại đền Thượng sẽ là tích cực và đáng quý. Vậy, sao điều đó không được công bố rộng rãi ngay khi thực hiện, để có thể tìm kiếm sự đồng tình (và hỗ trợ) từ cộng đồng - thay vì phải tổ chức thêm hẳn một cuộc hội thảo vào mấy năm sau? Và nếu như “đá lạ” được yêu cầu mang ra khỏi đền Hùng - như ý kiến hiện có của nhiều chuyên gia, phải chăng chính những người quản lý ở đền Hùng lại đang đi ngược với tiêu chí và yêu cầu của Luật Di sản văn hóa, cũng như với tính chất của một khu vực thiêng liêng như đền Thượng?

Câu chuyện “đá lạ” năm nay khiến nhiều người không khỏi liên tưởng tới trường hợp “cột đá thề” ngay tại đền Hùng vào năm 2011. Trong nhiều năm dài, một cột đá dài đã tồn tại ở sân đền Thượng, với những truyền thuyết trong dân gian rằng đó chính là “cột đá thề” được dựng lên khi vua Hùng truyền ngôi lại cho An Dương Vương. Tuy nhiên, khi tu sửa, cột đá này đã được đưa vào Bảo tàng Hùng Vương, để thay vào chỗ cũ bằng... một cột đá mã não mới nguyên và ít nhiều gây nên những phản ứng từ dư luận.

Từ "đá thề” tới “đá lạ”, dường như chúng ta đang đứng trước một thực tế: Luôn mất thời gian vào những rắc rối và tranh luận vô bổ, khi mà việc quản lý di sản không được thực hiện nghiêm chỉnh ngay từ ban đầu.

Sơn Tùng
Thể thao & Văn hóa

Phụ lục: Ngũ bộ chú trên đá Đền Hùng

 
-->đọc tiếp...

Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2013

TỈNH NAM ĐỊNH TIẾT LỘ: 3 NGÀY LỄ HỘI KHAI ẤN NĂM NGOÁI KIẾM ĐƯỢC 14 TỶ

Bài trên Thể Thao và Văn hóa  tiết lộ:Lễ hội Khai ấn đêm 14 tháng Giêng năm ngoái (2012) tỉnh Nam Định đã kiếm được 14 tỷ đồng.
.
Lễ hội khai ấn đền Trần: Vẫn sợ "phe ấn" 

Năm 2012, tuy đã thực hiện tổ chức theo đề án mới của Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam song tình trạng "phe ấn" ở lễ hội đền Trần vẫn hoạt động. "Năm tới đây chúng tôi sẽ yêu cầu các lực lượng công an vào cuộc mạnh tay để tránh tình trạng người dân địa phương xin ấn rồi bán lại"- bà Cao Thị Tính, Phó Chủ tịch UBND TP Nam Định cho hay.
.
Ông Nguyễn Xuân Hoạt chia sẻ tại buổi họp báo.
Đó cũng là một trong những nội dung của buổi họp báo về việc tổ chức lễ hội khai ấn đền Trần diễn ra hôm qua (30/1) tại Nam Định.

1. Theo thông tin từ ban tổ chức, lễ khai ấn đền Trần năm tới đây sẽ được tổ chức trong ngày 14, 15, 16 tháng Giêng năm Quý Tỵ. Theo đó, 23h15, ngày 14 tháng Giêng, 14 cụ cao niên phường Lộc Vượng cùng đại diện của một số ban ngành sẽ khai ấn và chứng kiến lễ khai ấn. 7h sáng ngày 15, ấn sẽ được phát cho nhân dân và du khách thập phương cho đến hết 20 tháng Giêng tại nhà Giải Vũ, nhà trưng bày đền Trùng Hoa.  

Khi được chất vấn về các vấn nạn: ăn xin, "sư giả", cướp ấn, cướp lễ, chèo kéo khách, và đặc biệt là "phe ấn" lộng hành, ban tổ chức cho hay: Thành phố Nam Định đã thành lập BTC lễ hội gồm 4 tiểu ban: Nghi lễ, Tuyên truyền, An ninh trật tự và Hậu cần. "Đồng thời, chúng tôi sẽ tổ chức tuyên truyền cũng như yêu cầu các gia đình xung quanh đền ký vào bản cam kết thực hiện đúng quy định của ban tổ chức" - ông Nguyễn Xuân Hoạt, Trưởng ban Quản lý khu di tích lịch sử văn hóa Đền Trần - chùa Tháp (Nam Định) nói.

2. Còn theo bà Cao Thị Tính, Phó Chủ tịch UBND TP Nam Định: Số lượng ấn là có hạn. Vì cần đảm bảo cho sức khỏe các cụ cao tuổi nên ấn không thể đóng nhanh được. Và địa phương tái khẳng định trước sau cũng chỉ dùng một ấn. Chiếc ấn này được du khách thập phương thấy rõ trong các hoạt động rước ấn và hồi ấn. 

Bà Tính cũng cho hay, hằng năm, lễ hội khai ấn mang về cho Nam Định khoảng 10 tỷ đồng. Còn năm 2012 vừa qua, con số này là hơn 14 tỷ đồng. Tất cả số tiền này được công bố công khai, sử dụng minh bạch theo Luật ngân sách, 100% được quản lý qua kho bạc.

Theo ông Nguyễn Xuân Hoạt, do năm ngoái chuẩn bị có phần gấp gáp nên số lượng ấn phát ra là khoảng 25 vạn cánh ấn. Điều này vẫn không đáp ứng được kỳ vọng của du khách. Năm nay, BTC sẽ chuẩn bị kỹ càng hơn. Và chắc chắn, số lượng ấn phát ra sẽ tăng thêm nhiều.

Theo TT&VH 

NĂM NAY:  50.000 ấn đền Trần phát từ sáng 15 tháng Giêng
(VTC News) – Ban tổ chức lễ hội đền Trần (Nam Định) dự kiến phát 50 ngàn ấn trong 3 ngày cho nhân dân và khách thập phương.

Theo kế hoạch của UBND TP Nam Định, lễ hội khai ấn đền Trần - Nam Định năm 2013 (Xuân Quý Tỵ) sẽ được khai hội vào ngày 14 tháng Giêng âm lịch.

Đêm 14 tháng Giêng, ban tổ chức thực hiện các nghi lễ truyền thống của lễ hội Đền Trần, sau đó, từ 7h sáng ngày 15 đến ngày 17 tháng Giêng âm lịch (24/2 đến ngày 26/2) ban tổ chức sẽ phát ấn cho nhân dân và khách thập phương.

Ban tổ chức cũng dự kiến phát 50 ngàn cánh ấn trong 3 ngày tại một số địa điểm chính trong khuôn viên đền Trần, như nhà Giải Vũ, nhà trưng bày đền Trùng Hoa và một điểm trong khu vực vườn cây đền Trần.


-->đọc tiếp...

Thứ Năm, 11 tháng 10, 2012

BẮC NINH: PHÁT HIỆN MỘT VĂN BIA CỔ ĐƯỢC KHẮC NĂM 601

Văn bia cổ ở Bắc Ninh là minh văn “Nhân Thọ xá lợi tháp” 


(TT&VH Online) - Đầu tháng 8/2012, Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh đã phát hiện và sưu tầm được hai cổ vật độc đáo ở chùa Thiền Chúng (Thuyền Chúng), huyện Long Biên, xứ Giao Châu xưa, trong đó có một tấm bia đá có từ năm 601, được đánh giá là cổ nhất Việt Nam. Những văn tự ghi trên bia thuộc loại “khó hiểu” nên nội dung của văn bia là điều bí ẩn.

Tuy nhiên, tại một công trình nghiên cứu trình bày tại Hội nghị thông báo khảo cổ học toàn quốc mới đây, Thạc sĩ Phạm Lê Huy, Giảng viên Khoa Đông Phương học, Đại học XH&NV (thuộc ĐHQGHN) cho biết đã giải mã được những bí ẩn ghi trên văn bia.

Theo Thạc sĩ Phạm Lê Huy, nội dung ghi trong văn bia gồm có tổng cộng 133 chữ, được chia làm 13 dòng. Sau khi giải mã chữ viết, có thể thấy nội dung văn bia trên như sau:

Minh văn Nhân Thọ Xá lợi tháp ở Thanh Châu (Trung Quốc). Chú thích của Tễu

“1. Xá lợi tháp minh văn
2. Duy Đại Tùy Nhân Thọ nguyên niên tuế thứ Tân Dậu thập nguyệt
3. Tân Hợi sóc thập ngũ nhật Ất Sửu
4. Hoàng đế phổ vi nhất thiết pháp giới u hiển sinh linh cẩn
5. ư Giao Châu Long Biên huyện Thiền Chúng tự phụng an xá lợi
6. kính tạo linh pháp nguyện
7. Thái Tổ Vũ Nguyên Hoàng đế, Nguyên Minh Hoàng Hậu, Hoàng đế, Hoàng
8. hậu, Hoàng thái tử, chư vương tử tôn đẳng, tịnh nội ngoại thần
9. quan, viên cập dân thứ, lục đạo, tam đồ nhân, phi nhân đẳng
10. Sinh linh thế thế trị phật văn pháp, vĩnh ly khổ không, đồng
11. thăng diệu quả
12. Sắc tứ Đại đức Tuệ Nhã pháp sư, Lại bộ Vũ kỵ úy
13. Khương Huy tống xá lợi ư thử khởi pháp”.

Qua so sánh, có thể nhận thấy văn bia trên có nội dung về cơ bản giống với “Nhân Thọ xá lợi tháp” có niên đại 601 đã được phát hiện tại Trung Quốc.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, văn bia cổ ở Bắc Ninh vẫn có một số điểm khác biệt so với văn bia phát hiện ở Trung Quốc.

Trong văn bia cổ ở Bắc Ninh, dòng đầu tiên ghi chữ “Xá lợi tháp minh”, trong khi đó, một số minh văn phát hiện ở Trung Quốc lại ghi là “Xá lợi tháp hạ minh” hoặc không ghi tiêu đề. Vị trí khắc dòng tiêu đề cũng khác nhau ở từng bia, có cái ghi dòng đầu, có cái ghi dòng cuối.

Ngoài ra, trong khi các minh văn khác chỉ có phần chính văn thì ở văn bia cổ ở Bắc Ninh lại có ghi thêm phần chú thích “sắc sứ” là “Đại đức Tuệ Nhã pháp sư” và “Vũ kỵ úy Khương Huy”.

Minh văn Thanh Châu (Trung Quốc), ngoài 2 “sắc sứ” là “Đại đức Trí Năng” và “ Vũ kỵ úy Lý Đức Kham còn ghi thêm tên 2 người tùy tùng (tòng giả) và 2 viên chức Tư mã và Lục sự tham quân của Thanh châu. Đối chiếu với chiếu thư của Tùy Văn Đế, có thể xác định: “Đại đức Tuệ Nhã pháp sư” và “Đại đức Trí Năng” là 2 trong số 30 sa môn được Tùy Văn Đế cử về địa phương, còn Khương Huy và Lý Đức Kham là 2 “tản quan” tháp tùng.

Bên cạnh đó, việc nắp bia và bia được kết dính bằng một chất đặc biệt cũng được phát hiện tại Trung Quốc. Sự thống nhất trong nội dung minh văn với các tấm bia tìm được tại Trung Quốc cũng như sự trùng khớp thông tin (ngày 15 tháng 10 năm 601, xây tháp tại chùa Thiền Chúng ở Giao Châu) với các tư liệu khác như “Quảng hoằng minh tập” và “Cảm ứng thông lục” có thể khẳng định: Tấm bia vừa được tìm thấy tại Bắc Ninh chính là minh văn “Nhân Thọ xá lợi tháp” được khắc cùng với sự kiện xây dựng tháp xá lợi tại chùa Thiền Chúng ở Giao Châu năm 601.
Đánh giá về giá trị và ý nghĩa lịch sử của tấm văn bia cổ vừa được phát hiện và giải mã ở Bắc Ninh, Thạc sĩ Phạm Lê Huy khẳng định: Đây là nguồn tư liệu kim thạch quý giá, bên cạnh bia Trường Xuân và tấm bia phát hiện ở khu vực Vạn Xoan trước đây, đã giúp các nhà nghiên cứu rõ hơn về tình hình chính trị, quan hệ ngoại giao, lịch sử Phật giáo tại Việt Nam giai đoạn thời Tiền Lý. Liên quan đến lịch sử Phật giáo, nó còn giúp chúng ta nhận thức hoàn chỉnh hơn về hoạt động xây dựng tháp xá lợi và các tín ngưỡng xung quanh trong thời Tùy – Đường.

Không chỉ có ý nghĩa đối với Việt Nam, tấm bia cổ Bắc Ninh cũng là nguồn tư liệu quý giá giúp nâng cao hiểu biết của giới học giả Trung Quốc và Nhật Bản về hoạt động xây dựng “Nhân Thọ xá lợi tháp” nói riêng cũng như chính sách Phật giáo của nhà Tùy nói chung.

Lưu Thủy
Nguồn: TT & VH 

-->đọc tiếp...

Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2012

"TỨ BẤT TỬ" TRONG THẦN ĐIỆN VIỆT NAM


TỨ BẤT TỬ TRONG TÂM THỨC VIỆT NAM
Nguyễn Xuân Diện
Lời dẫn của tác giả: Nhân ngày Giổ tổ năm Nhâm Thìn 2012, xin giới thiệu lại bài viết về Tứ Bất tử của Nguyễn Xuân Diện viết năm 1996. Trong các vị "Tứ Bất Tử" có 3 vị hiển thánh từ thời Hùng Vương, và đặc biệt, 2 trong 3 vị là con rể của Vua Hùng.
Trong tín ngưỡng thờ bách thần của người Việt, “hoặc có vị là tinh túy của núi sông, hoặc có vị là nhân vật linh thiêng, khí thế lừng lẫy về trước, anh linh còn mãi về sau” (Lời tựa sách Việt điện u linh), nhưng có 4 vị thần được dân gian tôn vinh là Tứ bất tử. Đó là bốn vị linh thiêng trường sinh bất tử trong thần điện Việt Nam. Mọi người vẫn cho rằng đó là Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử, Tháng Gióng và Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Thực ra, trong lịch sử đã đã diễn ra không phải hoàn toàn như vậy, và trong chúng ta không phải ai cũng biết Tứ bất tử là những ai và có từ bao giờ.   

Những ghi chép trong thư tịch cổ

Tài liệu xưa nhất về thuật ngữ Tứ bất tử mà chúng tôi được biết là bản Dư địa chí, in trong bộ Ức Trai di tập, (VHv.1772/3 q.6) do Nhà in Phúc Khê, in năm Mậu Thìn (1868) niên hiệu Tự Đức.

Bản Dư địa chí mà chúng ta hiện có là một công trình nghiên cứu tập thể. Ngoài lời tập chú của Nguyễn Thiên Túng, lời cẩn án của Nguyễn Thiên Tích và lời thông luận của Lý Tử Tấn, Dư địa chí còn có những phần do người các thời sau (cụ thể là người các thế kỷ 16, 17, 18) đã thêm vào và sửa chữa nhiều lần. Trong số họ, có Thư Hiên Nguyễn Tông Quai (1693-1767). 

Thư Hiên Nguyễn Tông Quai ở thế kỷ XVII là người đầu tiên giải thích thuật ngữ Tứ bất tử, khi ông chú giải điều 32 trong sách Dư địa chí (VHv.1772/3 tờ 13a) của Nguyễn Trãi. 

Lời chú ấy như sau: “... Người đời Thanh nói: Tản Viên Đại Vương đi từ biển lên núi, Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa bay lên không trung, Đồng tử nhà họ Chử gậy nón lên trời; Ninh Sơn (nay là Sài Sơn) Từ Đạo Hạnh in dấu vào đá để đầu thai. Ấy là An Nam Tứ bất tử vậy” (Nguyễn Thư Hiên viết: ... Thanh nhân xưng Tản Viên Đại Vương chi tự hải vãng sơn; Phù Đổng Thiên Vương chi kỵ mã đằng không; Chử gia Đồng tử chi trượng lạp thăng thiên; Ninh sơn (kim Sài Sơn) Từ Đạo Hạnh chi ấn thạch đầu thai. Vị An NamTứ bất tử vân).

Giá Sơn Kiều Oánh Mậu (1854-1911) người làng Đường Lâm  là nhà học giả nổi tiếng của cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, trong lời Án sách Tiên phả dịch lục (AB.289, tờ 4a), in năm Canh Tuất 1910 có viết: 

“Tên các vị Tứ bất tử của nước ta, người đời Minh cho là: Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đúng là như vậy. (Vì) bấy giờ Tiên chúa (Liễu Hạnh) chưa giáng sinh nên người đời chưa thể lưu truyền, sách vở chưa thể ghi chép. Nay chép tiếp vào. (Án: Ngã Tứ bất tử chi danh, Minh nhân dĩ Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đương chi nhiên; thử thời Tiên chúa vị giáng, cố vị cập thế nhân sở truyền, văn hiến khả trung. Kim tục chi).

Trên đây là những thông tin về Tứ bất tử trong thư tịch Hán Nôm, hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Các tài liệu tiếng Việt hiện đại về Tứ bất tử thì phong phú hơn nhiều. Dưới đây, chúng tôi xin điểm qua những tài liệu đó: 

Nguyễn Tuân (1910-1987), trong thiên truyện Trên đỉnh non Tản in trong tập Vang bóng một thời, có viết: “... Bốn vị Tứ bất tử nơi thế giới u linh: thánh Tản Viên, chúa Liễu Hạnh, Chử Đồng Tử, và Phù Đổng thiên vương”. 

Hà Kỉnh (1922-1995) trong cuốn Truyền thuyết Sơn Tinh viết: “Ở Việt Nam ta có bốn vị thần bất tử là: Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử, Bà chúa Liễu Hạnh, Tản Viên Sơn Thần”. 

Vũ Ngọc Khánh và Ngô Đức Thịnh, trong chuyên khảo Tứ bất tử chỉ thấy trình bày về bốn vị thánh bất tử gồm: Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ, Đức Thánh Gióng và Thánh Mẫu Liễu Hạnh.  

Bảng thống kê dưới đây sẽ cho thấy sự xuất hiện của các vị Tứ bất tử trong các tư liệu kể trên (số thứ tự như số thứ tự các đơn vị tư liệu đã trình ở trên):

STT
Tản Viên
Sơn Thánh
Chử
Đạo Tổ
Thánh Gióng
Từ Đạo Hạnh
Nguyễn
Minh Không
Liễu Hạnh
1
+
+
+
+


2
+
+
+

+

3
+
+
+


+
4
+
+
+


+
5
+
+
+


+

Như vậy các vị Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ và Thánh Gióng luôn luôn cố định và nhất quán trong các tài liệu, các thời đại. Khi Liễu Hạnh chưa giáng sinh thì Từ Đạo Hạnh hoặc Nguyễn Minh Không được xếp vào hàng Tứ bất tử. Thư tịch cổ cũng cho biết rằng, việc người Việt thờ phụng Tứ Bất Tử được người Trung Hoa biết đến và ghi nhận. Điều đó chứng tỏ việc phụng thờ Tứ Bất tử là một nét tâm linh rất độc đáo và riêng khác của người Việt. 

Lý giải về Tứ bất tử

Trước hết, nói về con số bốn (tứ). Trong tư duy của người Việt, con số này mang tính ước lệ và có ý nghĩa lớn. Tứ (bốn) là một hằng số được dùng để khái quát về một phạm trù nào đó. Ví dụ: Tứ trấn, An Nam tứ đại tài, Tràng An tứ hổ, Sơn Tây tứ quý, Mỗ-La-Canh-Cót tứ danh hương v.v..

Và việc chọn lấy 4, trong toàn thể của một tập hợp là chọn lấy những gì tiêu biểu nhất, độc đáo nhất và có tính thời đại.
 
Từ bất tử cũng là một tập hợp như vậy. Cũng chính vì thế mà có đến 6 vị thánh được coi là bất tử trong tín ngưỡng dân tộc Việt. đó là các vị: Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ, Thánh Gióng, Liễu Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không. 

Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh:

Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh là tên gọi của vị Thần núi Tản, vị thần tối cổ trong tâm linh dân tộc Việt. Tản Viên Sơn tức là núi Ba Vì, “núi tổ của nước ta” (Nguyễn Trãi - Dư địa chí). Núi có ba ngọn cao chót vót. Ba anh em Thánh Tản (còn gọi là Tam vị Đại Vương Quốc chúa Thượng đẳng thần) chia nhau cai quản, mỗi người một ngọn núi.

Xuất phát từ nhận định cốt lõi tín ngưỡng Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh là TÍN NGƯỠNG THẦN NÚI (Sơn Tinh, Sơn thần) nằm trong hệ thống tín ngưỡng các hiện tượng tự nhiên, chúng tôi khẳng định rằng, nói Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh là nói tới cả ba anh em thần núi. Như vậy, đương nhiên cả ba vị thần đó đều thuộc Tứ bất tử

Cũng từ cốt lõi của tín ngưỡng thần núi của người Việt, cho nên có hiện tượng công chúa Ngọc Hoa, vợ của Thánh Tản (người anh cả) không được đề cao ngang hàng với Tam vị Tản Viên Sơn Thánh, dù rằng ở một só làng nơi giáp ranh giữa Sơn Tây, Ba Vì, Phú Thọ vẫn có những lễ hội đề cao Ngọc Hoa. 

Văn tế, sự sắp xếp các ngai thờ, nghi lễ, tự khí... mà chúng tôi khảo sát tại những ngôi đền thờ Thánh Tản ở vùng xung quanh núi Ba Vì càng góp phần làm sáng tỏ cho những nhận định trên đây. 

Chử Đạo Tổ: 

Nếu như ở huyền thoại Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh, người ta có thể tìm thấy những lớp ý nghĩa cổ xưa nhất của tín ngưỡng chất phác, nguyên thủy bằng cách bóc tách những lớp trầm tích tiềm ẩn trong văn bản thần tích thì với huyền thoại Chử Đồng Tử, công việc trở nên rất khó khăn. Huyền thoại Chử Đồng Tử (Chử Đạo Tổ) là câu chuyện của Đạo Giáo, Đạo Thần Tiên, một tín ngưỡng vốn du nhập từ bên ngoài vào nước ta từ rất sớm. Cốt lõi huyền thoại cũng như tín ngưỡng Chử Đạo Tổ là tín ngưỡng Đạo giáo mang màu sắc tín ngưỡng dân gian thuần Việt. Chử Đồng Tử chính là người đi tiên phong trong cuộc thụ phép thần tiên để tế độ và truyền dạy cho người khác. Dân gian tôn vinh Chử Đồng Tử là Chử Đạo Tổ là vì thế.

Khảo sát hệ thống thờ tự ở đền chính thờ Chử Đồng Tử ở Đa Hòa, chúng tôi thấy, từ rất xa xưa, ở đó đã có ba pho tượng đồng và ba pho tượng đất mà cứ vị ngồi ở giữa là Chử Đạo Tổ, hai vị ở hai bên là Tiên Dung và Nội Trạch Tây Cung. Ở đình Tự Nhiên (huyện Thường Tín, Hà Tây), đối diện với Đa Hòa qua sông Hồng, khi mở hội cũng rước ba cỗ long kiệu ba vị kể trên. 

Mặc dù vậy, nếu xuất phát từ cốt lõi tín ngưỡng Chử Đạo Tổ thì trong số ba vị này, chỉ có Chử Đồng Tử, là thuộc về Tứ bất tử, của tâm thức dân gian Việt Nam. 

Thánh Gióng
là vị “anh hùng độc lập” trong Tứ bất tử. 

Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Liễu Hạnh và quá trình hội nhập vào Tứ bất tử:

Trước kia, khi Liễu Hạnh chưa xuất hiện (giáng thế) thì Từ Đạo Hạnh hoặc Nguyễn Minh Không là một trong Tứ bất tử có lẽ là từ những “tiêu chí” sau đây:

- Cả hai vị đều “giáng sinh” trong một triều đại sớm của lịch sử Việt Nam.

- Từ hai vị này đều làm nảy nở những câu chuyện đậm màu sắc Đạo giáo - một tín ngưỡng sớm đến với Việt Nam và có nhiều khả năng hội nhập với tín ngưỡng bản địa. 

- Hai vị này đều hóa thân sau khi mất, và đầu thai thành nhiều kiếp.

Khi Liễu Hạnh “giáng sinh” vào khoảng thế kỷ XVI cũng chính là lúc ý thức hệ Nho giáo ở nước ta đang đi vào con đường suy thoái. Thực trạng xã hội loạn lạc, chiến tranh giết tróc, làm cho nhân dân vô cùng cực khổ, khao khát cháy bỏng về một cõi tâm linh an lạc, siêu thoát. Phật giáo và Đạo giáo có cơ phát triển trong dân gian. Về Phật giáo, quan niệm Tịnh Độ tông với lối sống từ bi hỷ xả, với phương thức thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người, với tính chất dung hòa và phổ cập đã trở nên thắng thế và phổ biến trong suốt các thế kỷ XVI và XVII. Còn Đạo giáo, với những bùa chú, phép thuật, với những lối hành đạo phức tạp bởi những biểu tượng đã nhiều lúc trở thành cứu cánh để người ta tìm về làm chỗ dựa và nuôi dưỡng niềm tin về sự giải thoát. Nội Đạo tràng ra đời vào lúc này và sớm trở nên thịnh hành, được vua Lê thừa nhận. Tín ngưỡng tam phủ, mà trung tâm là thờ Mẫu hình thành và phát triển khá nhanh.
Liễu Hạnh “giáng thế” đáp ứng nhu cầu thỏa mãn tâm linh của mọi giai tầng trong xã hội, phù hợp với tâm thức dân gian Việt Nam. Nếu so với Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không thì sự phụng thờ Liễu Hạnh bắt nguồn sâu xa từ trong tín ngưỡng thuần Việt của tâm thức dân gian, rồi lại xâm thực và hòa đồng vào tín ngưỡng Tứ phủ, nên tín ngưỡng này mang nhiều hơi hướng thời đại, cập nhật và phù hợp với thực tại. Ra đời trong thời kỳ đó, và với vai trò như vậy, việc tín ngưỡng Liễu Hạnh trở thành trung tâm của tín ngưỡng Tứ phủ và hội nhập với Tứ bất tử, trở thành biểu tượng của sự trường tồn là một điều dễ hiểu. 

Từ đó đến nay, tín ngưỡng Tam phủ rồi Tứ phủ luôn luôn là một trong những trung tâm tín ngưỡng của tâm thức dân gian. Ảnh hưởng của tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh mang tính bao trùm, có phạm vi rộng lớn hơn so với ảnh hưởng của Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không là điều đã khẳng định trong dân gian. 

Tóm lại, trong tâm thức dân gian Việt Nam từng có Tứ bất tử. Các vị từng được coi là có chân trong Tứ bất tử gồm:

- Tản Viên Sơn thánh (3 anh em)
- Chử Đạo Tổ
- Thánh Gióng
- Thánh Láng Từ Đạo Hạnh
- Nguyễn Minh Không
- Thánh Mẫu Liễu Hạnh
 
Qua thời gian, cùng với sự xuất hiện những yếu tố mới, mang tính thời đại về tư tưởng, triết lý, quan niệm thì niềm tin, tín ngưỡng, quan niệm về Tứ bất tử có sự thay đổi, dẫn đến việc Thánh Mẫu Liễu Hạnh thay thế Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, đứng vào hàng Tứ bất tử như là một tất yếu.

Tuy nhiên, những cắt nghĩa trên đây chỉ là những nét phổ quát nhất, trên mặt bằng tín ngưỡng của dân gian trong phạm vi rộng lớn, mang đặc điểm chung nhất. Ở một số nơi, một số vùng, quan niệm tín ngưỡng vẫn có những nét riêng, và tất nhiên, không phổ biến và chỉ có ảnh hưởng ở phạm vi nhỏ, hẹp. 

Việc phụng thờ Tứ Bất tử là một tín ngưỡng thuần túy Việt Nam, kết tinh từ những truyền thuyết đẹp đẽ và là một bộ phận không thể tách rời trong di sản tôn giáo và tinh thần của đất nước. Và chính người Trung Quốc, từ bao đời nay cũng đã biết đến và ghi nhận tín ngưỡng Tứ Bất tử của Việt Nam.

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 1996


-->đọc tiếp...