Blogger Widgets
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trần Công Trục. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trần Công Trục. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2013

BBC: VIỆT NAM CÓ NHƯỢNG BỘ TRUNG QUỐC VỀ BIÊN GIỚI KHÔNG?

VN có nhượng bộ TQ về biên giới không? 
Theo BBC


Hiệp ước Biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc được ký năm 1999

Vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc luôn thu hút sự quan tâm và tranh cãi trong dư luận người Việt trong và ngoài Việt Nam.

Cho đến hôm nay, Hiệp ước Biên giới trên đất liền được hai nước ký năm 1999 vẫn gây ý kiến trái ngược.

Một nhà nghiên cứu về tranh chấp Biển Đông, Dương Danh Huy, mới đây gửi cho BBC bài viết về chính sách thông tin của Việt Nam liên quan biên giới lãnh thổ và ranh giới biển. Bài viết đặt ra một số câu hỏi cho Tiến sĩ Trần Công Trục, cựu trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, sau khi ông Trục, trên báo Việt Nam, kể lại những năm đàm phán biên giới với Trung Quốc.

Khi được Lê Quỳnh của BBC liên lạc, ông Trần Công Trục đồng ý trả lời những "băn khoăn" về cuộc đàm phán biên giới trên bộ và phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Xin giới thiệu với quý vị hai bài viết muốn giải đáp thêm các câu hỏi về quá trình đàm phán giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc. 

Ý kiến của ông Dương Danh Huy

Cho đến nay vẫn có có nhiều ý kiến khác nhau về tính công bằng của hai hiệp định Việt-Trung về ranh giới trên bộ và về vịnh Bắc Bộ được ký vào năm 1999 và 2000.

Mới đây, trả lời phỏng vấn trên báo Giáo dục Việt Nam về hai hiệp định này, TS Trần Công Trục, nguyên trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, nói:
“Điều đáng nói là không chỉ dư luận người dân mà ngay cả những người làm công tác nghiên cứu, các nhà khoa học lẫn những nhà quản lý, lãnh đạo vẫn còn nhiều người mơ hồ, lăn tăn về chuyện này. Thậm chí có người suy đoán “chắc là dư luận nói đúng” bởi vì họ nghĩ Việt Nam là nước nhỏ, nước yếu ở cạnh một nước mạnh, nước lớn như TQ thì phải có sự nhượng bộ không thể tránh khi đàm phán tranh chấp biên giới, lãnh thổ.”
Điều TS Trần Công Trục nói đến là do một khuyết điểm cơ bản trong chính sách của Việt Nam về thông tin liên quan đến biên giới lãnh thổ và ranh giới biển. 

Trấn an?

Nếu Việt Nam công bố minh bạch và đầy đủ thông tin thì đã không có nhiều người làm công tác nghiên cứu, nhà khoa học, nhà quản lý, lãnh đạo “mơ hồ, lăn tăn” về các hiệp định lãnh thổ và biển, mà dư luận người dân cũng đã đỡ xôn xao. Thông tin đó không thể dựa trên việc quan chức hé ra một phần, không thể được thay thế bằng thông tin hành lang, hay những lời khẳng định, trấn an. Ngược lại, Việt Nam phải có chính sách cung cấp cho nhân dân thông tin chính thức, minh bạch và đầy đủ, theo tư duy 3C, “Công khai, Công luận, Công pháp quốc tế”.
Cho tới nay, mặc dù tọa độ của các cột mốc đã được công bố, vẫn chưa có thông tin đầy đủ và minh bạch về cuộc đàm phán dẫn đến chúng.
Không thể bác bỏ những suy đoán mà TS Trần Công Trục đề cập đến, hay những suy đoán khác, bằng những lời phủ định “chay”. Để bác bỏ chúng, cần công bố những thông tin như: trong đàm phán Việt Nam đã đòi gì, Trung Quốc đã đòi gì, mỗi bên đã đưa ra dẫn chứng và lập luận gì cho yêu sách của mình, và cuối cùng mỗi bên được gì với lý do gì. Người quan tâm sẽ dùng những thông tin đó để đánh giá giá trị pháp lý của chứng cứ của mỗi bên và tính công bằng của thỏa hiệp.

Nếu thay thế những thông tin đó bằng những lời trấn an thì nhân dân không thể biết có bên nào đã ngang ngược hay không, và bên kia có đã đành phải chấp nhận hay không; họ chỉ có thể lựa chọn giữa có tin lời trấn an hay không. Lãnh thổ là của nhân dân cho nên họ phải được hơn như thế: họ phải được có thông tin về đàm phán lãnh thổ và biển. Các lời khẳng định, các lời trấn an, tin hành lang và tin đồn là không đáp ứng đủ quyền được biết của nhân dân.

Nhưng cho tới nay, mặc dù tọa độ của các cột mốc đã được công bố, vẫn chưa có thông tin đầy đủ và minh bạch về cuộc đàm phán dẫn đến chúng. 

Khu vực Núi Đất

Một thí dụ là khu vực Núi Đất, mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn và đánh chiếm vào tháng 4 năm 1984. Vào tháng 7 năm 1984 Quân đội Nhân dân Việt Nam đã mở chiến dịch kéo dài nhiều năm, chiến đấu quyết liệt để giành lại những vùng bị Trung Quốc chiếm đóng. Với xương máu của rất nhiều người lính, Việt Nam đã giành lại được nhiều phần.

Trên bàn đàm phán, Việt Nam cũng đã giành lại được một số mỏm núi. Theo thông tin không chính thức từ phía Trung Quốc và phía Việt Nam thì có một mỏm có vẻ như cả hai bên không chối cãi là của Việt Nam, nhưng Trung Quốc đã xây nghĩa trang quân đội trên đó và họ chủ trương là khu vực nghĩa trang là bất khả xâm phạm.


Việt Nam có cuộc chiến biên giới với Trung Quốc tháng Hai 1979

Có việc đó hay không? Nếu có thì vì lý do nào mà Việt Nam đã chấp nhận? Vì nhân đạo và địa chính trị, hay vì không có đủ chứng cứ pháp lý, hay lý do nào khác? Tại sao thông tin không được công bố? 

Vịnh Bắc Bộ

Một thí dụ khác là ranh giới trong vịnh Bắc Bộ. Ban đầu Việt Nam chủ trương kéo dài đường phân định trong Hiệp định Pháp-Thanh 1887 để chia cả lãnh hải 12 hải lý và vùng đặc quyền kinh tế bên ngoài 12 hải lý, nhưng Trung Quốc đã không chấp nhận. Sau đó Việt Nam chủ trương chia theo luật quốc tế về phân định biển. Theo tài liệu đã công bố của nhân viên nhà nước có chức năng thì Trung Quốc chủ trương chia đều 50:50, không cần đến lập luận pháp lý. Cuối cùng hai bên đã thỏa hiệp bằng tỷ lệ 53:47 nghiêng về Việt Nam.
Điều quan trọng ở đây là phải có thông tin chính thức và có tranh luận khoa học, duy lý. Đó cũng là nguyên tắc chung cho việc nhận định về các hiệp đinh biên giới, ranh giới.
Theo bản đồ độ phân giải cao thì nhiều điểm trong đường phân định vùng đặc quyền kinh tế trong vịnh Bắc Bộ nằm gần lãnh thổ Việt Nam hơn lãnh thổ Trung Quốc. Nổi bật nhất là điểm 17 nằm gần bờ biển Hà Tĩnh hơn đảo Hải Nam khoảng 50 km, và điểm 14 nằm gần bờ biển Nam Định hơn đảo Hải Nam khoảng 37 km. Trong khi đó, không có điểm nào nằm gần lãnh thổ Trung Quốc hơn lãnh thổ Việt Nam. Nếu lấy một đường trung tuyến nào đó làm chuẩn (có thể có vài đường trung tuyến khác nhau đều tương đối hợp lý) thì có thể nói là Việt Nam được ít hơn đường trung tuyến ít nhất là nhiều trăm cây số vuông.

Vì vậy, mặc dù lời phê phán rằng Hiệp Định Pháp-Thanh 1887 đã chia toàn bộ vịnh Bắc Bộ là lời phê phán không hợp lý, nhưng quan điểm chính thức của Việt Nam, rằng Hiệp Định vịnh Bắc Bộ 2000 là công bằng, cũng là quan điểm chưa thuyết phục.

Có thể cho rằng hiệp định đó là đại khái công bằng ở một mức nào đó, nhưng mức đó có là công bằng đủ hay không thì là điều có thể tranh luận. Trong tranh luận đó, thể có người cho rằng trước một Trung Quốc vừa mạnh, vừa tham, bất chấp luật quốc tế, thì việc Việt Nam đạt được mức công bằng đó là khá rồi, và có thể có người có quan điểm ngược lại.

Cũng có thể có người cho rằng việc được ít hơn đường trung tuyến đó là giá phải chăng cho việc có một ranh giới ổn định trong vịnh Bắc Bộ, và có thể có người có quan điểm ngược lại.

Điều quan trọng ở đây là phải có thông tin chính thức và có tranh luận khoa học, duy lý. Đó cũng là nguyên tắc chung cho việc nhận định về các hiệp đinh biên giới, ranh giới. 

Ý kiến ông Trần Công Trục

Việt - Trung ra Tuyên bố chung về hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên
 biên giới đất liền ngày 31/12/2008

Trước hết, tôi xin cảm ơn và hoan nghênh sự quan tâm và bày tỏ một số băn khoăn thắc mắc của học giả Dương Danh Huy sau khi đọc nội dung trả lời phỏng vấn của tôi đăng trên trang báo Điện tử Giáo dục Việt Nam gần đây. 

Ông Dương Danh Huy là học giả quen biết của độc giả Việt Nam và quốc tế quan tâm đến lĩnh vực biên giới, lãnh thổ, đặc biệt là vấn đề biển, đảo, trong đó có tôi. Tôi đã đọc, nghiên cứu khá kỹ những nội dung mà ông Dương Danh Huy đã phát biểu trên một số phương tiện thông tin truyền thông và một số công trình nghiên cứu đã đăng tải trên trang mạng điện tử “Quĩ nghiên cứu Biển Đông”. Là một công dân Việt Nam luôn tâm huyết với vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển, đảo của Tổ Quốc, hiện nay là một người nghiên cứu độc lập, tôi tâm đắc và đánh giá cao những công trình nhiên cứu của ông Dương Danh Huy, tôi cũng chia sẻ với những băn khoăn, trăn trở của ông có liên quan đến kết quả đàm phán giải quyết vấn đề biên giới trên bộ và phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian qua.

Đúng là sở dĩ cho đến nay trong dư luận vẫn còn tồn tại những băn khoăn, thắc mắc, thậm chí vẫn còn nghi hoặc về một số thành quả của quá trình đàm phán giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ với Trung Quốc, chủ yếu là do thiếu thông tin hoặc thông tin không rõ ràng, minh bạch, thậm chí mâu thuẫn nhau, chưa kể tới những thông tin thiếu trung thực, khách quan xuất phát từ những động cơ khác nhau. Đó là một thực tế ai cũng nhận ra. Dư luận đòi hỏi được cung cấp thông tin là hoàn toàn chính đáng, là nhu cầu cần kíp.
Có những nội dung có thể công khai ngay được, cũng có những nội dung chưa thề công khai ngay được, nhất là trong thởi gian đang đàm phán hoạch đinh biên giới và tiến hành phân giới cắm mốc trên thực địa. 
Tuy nhiên công bằng mà nói, sở dĩ còn tình trạng này là vì có những nguyên nhân chủ quan, khách quan mà chúng ta nên bình tĩnh xem xét. Là người trong cuộc, tôi có thể nói rằng đòi hỏi của công chúng nói trên mặc dù rất chính đáng, cần thiết, nhưng những người có trách nhiệm không thể có khả năng đáp ứng ngay, kịp thời được. Bởi vì đây là vấn đề hết sức hệ trọng, nhạy cảm và rất rất phức tạp, có liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời sông xã hội. Có những nội dung có thể công khai ngay được, cũng có những nội dung chưa thề công khai ngay được, nhất là trong thởi gian đang đàm phán hoạch đinh biên giới và tiến hành phân giới cắm mốc trên thực địa.

Mọi người đều biết thời gian đàm phán hoạch định và phân giới cắm mốc kéo dài chí ít là từ năm 1993 cho đến năm 2008, trước đó nữa là thời gian nghiên cứu chuẩn bị phương án đàm phán, mọi hồ sơ tài liệu đều phải được bảo quản theo chế độ bảo mật. Từ sau khi hoàn thành về cơ bản phân giới cắm mốc cho đến nay mới chỉ khoảng 5 năm, lại còn tiếp tục đàm phán một số nội dung quản lý biên giới, mốc giới, cửa khẩu, sử dụng sông suối biên giới chung…Với thời gian đó và với khối lượng công việc đó, có lẽ khó có thể có ai đáp ứng ngay được những đòi hỏi của dư luận. Mặc dù vậy, các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm và có liên quan cũng đã cố gắng công bố nhiều ấn phẩm khá tốt về lĩnh vực này.

Có thể nói rằng thông tin ngày càng phong phú, rõ ràng, công khai, minh bạch hơn. Mọi người có thể tìm mua tại các cửa hàng sách hay truy cập trên các trang mạng những ấn phẩm này. Tôi tin rằng các Cơ quan có trách nhiệm của Việt Nam sẽ dần dần bổ sung cung cấp đầy đủ mọi thông tin có liên quan và cần thiết. Thiết nghĩ đó cũng là trọng trách của các tổ chức, cơ quan, cá nhân có liên quan trước đòi hỏi chính đáng của công luận. Bởi vì công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia của các thế hệ người Việt Nam vẫn đang tiếp diễn.

Trở lại nội dung cụ thể mà ông Dương Danh Huy nêu lên, tôi mạn phép có đôi điều bình luận theo nhận thức và thông tin mà bản thân tôi tự nắm bắt được: 

Tình hình biên giới

Trước hết, có lẽ xin được phép nhắc lại khái quát về tình hình biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc.

Biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc dài khoảng 1.400 km tiếp giáp giữa 7 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam với tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây của Trung Quốc. Biên giới này được hoạch định và phân giới cắm mốc lần đầu tiên trong lịch sử bằng Công ước hoạch đinh biên giới ngày 20 tháng 6 năm 1887 và Công ước bố sung ngày 20 tháng 6 năm 1895 ký kết giữa Pháp và nhà Thanh (Trung Quốc).


Kim ngạch thương mại qua biên giới Việt - Trung đạt trên 8,6 tỷ USD năm 2012


Trong hơn 100 năm kể từ khi Công ước Pháp Thanh được ký kết, biên giới giữa 2 nước đã trải qua nhiều biến đổi trên thực địa do thời tiết, do diến đổi địa hình địa vật và do những biến động chính trị, xã hội ở mỗi nước cũng như trong quan hệ giữa 2 nước, đặc biệt là cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Vì vậy, đã nẩy sinh những tranh chấp hết sức phức tạp từ nhận thức khác nhau về hướng đi của biên giới cho đến lịch sử quản lý thực tế về biên giới…Chẳng hạn, lời văn mô tả và bản đồ có nơi không đầy đủ, chính xác, rõ ràng; các cột mốc biên giới được cắm từ cuối thế kỷ XIX không được xác định bằng lưới tọa độ, nhiều mốc bị hư hỏng, bị mất, xê dịch, nhiều mảnh bản đồ gốc không còn; trên một số khu vực biên giới xẩy ra sự chuyển dịch dân cư không theo biên giới pháp lý…

Từ tình hình nói trên, nhằm xác định lại chính xác biên giới để quản lý biên giới lãnh thổ tốt hơn, tránh những tranh chấp phức tạp xẩy ra làm ảnh hưởng đến quan hệ chính trị giữa hai nước, ảnh hưởng đến môi trường hòa binh, ổn định, hợp tác và phát triển của mỗi nước…, ngay sau khi bình thường hóa quan hệ tháng 11 năm 1991, hai bên đã thỏa thuận tiến hành đàm phán hoạch định biên giới mới thay cho Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 và tiến hành phân giới cắm mốc tại thực địa dựa trên nội dung của Hiệp ước hoạch định biên giới mới này. Quá trình đàm phán đã diễn ra như sau:

- Từ năm 1990, sau khi hai nước khôi phục quan hệ, từ 7-11-1991 đến 10-11-1991 đã ký hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc trên vùng biên giới: quản lý biên giới theo tình hình thực tế; thẩm quyền giải quyết biên giới cấp Chính phủ; giữ mốc biên giới.
Trong hơn 100 năm kể từ khi Công ước Pháp Thanh được ký kết, biên giới giữa 2 nước đã trải qua nhiều biến đổi trên thực địa do thời tiết, do diến đổi địa hình địa vật và do những biến động chính trị, xã hội ở mỗi nước cũng như trong quan hệ giữa 2 nước, đặc biệt là cuộc chiến tranh biên giới năm 1979.
- Từ năm 1992, đàm phán lần thứ 4 diễn ra ngày 19-10-1993 ký thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa 2 nước; trong thỏa thuận này, hai bên đã nhất trí mở ra 4 diễn đàn đàm phán về biên giới lãnh thổ (3 cấp chuyên viên và 1 cấp Chinh phủ) và đặc biệt đã thống nhất được căn cứ pháp lý để đàm phán là: “Hai bên đồng ý căn cứ vào Công ước hoạch định biên giới ký giữa Pháp và Trung Quốc ngày 26-6-1887 và Công ước bổ sung Công ước hoạch định biên giới 20-6-1895, cùng các văn kiện và bản đồ hoạch định, cắm mốc kèm theo đã được Công ước và Công ước bổ sung nói trên xác nhận hoặc quy định; đối chiếu xác định lại toàn bộ đường biên giới trên đất liền giữa VN và TQ…”

- Như vậy, mọi tư liệu lịch sử, bản đồ, sách giáo khoa, thậm chí cả các tài liệu chính thức đã xuất bản trước thời điểm này, nếu không được xác nhận là một bộ phận của Công ước nói trên, đều không có giá trị dùng làm căn cứ để xác định hướng đi của đường biên giới trong quá trình đàm phán lần này.

- Thực hiện Thỏa thuận nói trên, từ tháng 2/1994 đến tháng 12/1999, 2 bên đã họp 6 vòng cấp Chính phủ, 16 vòng nhóm công tác liên hợp, 3 vòng nhóm soạn thảo Hiệp ước.

- Tại vòng 2 (tháng 7/1994) nhóm công tác đã trao bản đồ chủ trương, qua đối chiếu có 870km/1360km đường biên giới trùng nhau (67%), 436km/1360km, 289 khu vực không trùng nhau với tổng diện tích 236,1km2 trong đó có 74 khu vực loại A (1,87km2) kỹ thuật vẽ chồng lấn nhau, 51 khu vực loại B (3,062km2) không vẽ tới, 164 khu vực loại C do quan điểm 2 bên khác nhau, trong đó có một số khu vực tranh chấp trên thực địa.

- Đàm phán cấp Chính phủ vòng 6 (25-28 tháng 9 năm 1998) thống nhất phân khu vực C thành 3 loại: khu vực Công ước đã quy định rõ ràng, khu vực một bên quản lý quá hoặc vạch quá đường biên giới, khu vực Công ước không qui định rõ ràng để xử lý theo nguyên tắc đã thỏa thuận, chẳng hạn:

1. Nguyên tắc các bên trao đổi vô điều kiện cho nhau những vùng đất quản lý quá đường biên giới: “Sau khi 2 bên đối chiếu xác định lại đường biên giới, phàm những vùng do bất kỳ bên nào quản lý quá đường biên giới về nguyên tắc cần trả lại cho bên kia không điều kiện” (Phần II, điểm 3, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa CHXHCN VN và CHND TH, ngày 19 tháng 10 năm 1993).
  • Trong quá trình phân giới cắm mốc, đối với một số khu vực nhạy cảm do có sự tồn tại của dân cư vượt qua biên giới pháp lý mới được hoạch định thì hai bên thỏa thuận thực hiện nguyên tắc giảm tối đa tác động đến khu dân cư, điều chỉnh biên giới sao cho cân bằng về diện tích, giữ nguyên hiện trạng khu dân cư, như nhà cửa, ruộng vườn, nghĩa trang mồ mả…Thực hiện nguyên tắc này, hai bên đã thỏa thuận xử lý thỏa đáng các khu vực có dân cư sinh sống; chẳng hạn, 4 khu vực loại C( 66c, 81c, 127c, 260c) diện tích khoảng 7,2 km2 có dân cư Việt Nam sinh sống quá đường biên giới pháp lý mới về phía Trung Quốc vẫn được giữ nguyên; 5 khu vực loại C với diện tích khoảng 5,7 km2 dân TQ ở quá đường biên giới pháp lý về phía Việt Nam cũng được giữ nguyên hiện trạng.
  • Đối với khu vực điểm cao có chốt quân sự, thì các điểm cao nằm trong lãnh thổ của nước nào thì thuộc nước đó. Đối với các điểm cao nằm ngay trên đường biên thì không bên nào được phép đóng quân hay không được xây dựng bất kỳ công trình quân sự nào trên đó, phù hợp với thông lệ quốc tế.
2. Nguyên tắc giải quyết đường biên giới trên sông suối: “Đối với những đoạn biên giới đi theo sông, suối, hai bên đồng ý sẽ tính đến mọi tình hình và tham khảo tập quán quốc tế, thông qua thương lượng hữu nghị để giải quyết” (Phần II, điểm 4, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới Việt – Trung 19 tháng 10 năm 1993). Tại vòng 5 đàm phán cấp Chính phủ, hai bên đã đạt được thỏa thuận về nguyên tắc giai quyết đường biên giới trên sông suối giữa 2 nước: Đối với những đoạn biên giới đã được Công ước 1887, 1895 xác định rõ ràng thì căn cứ vào các quy định của Công ước để xác định biên giới, cũng như sự quy thuộc các cồn bãi trên sông suối biên giới; đối với những đoạn biên giới theo sông suối chưa được Công ước xác định rõ ràng thì 2 bên sẽ áp dụng nguyên tắc phổ biến của Luật pháp và Tập quán quốc tế để xác định:
  • Trên các đoạn sông, suối tàu thuyền đi lại được đường biên giới sẽ đi theo trung tâm luồng chính tàu thuyền chạy.
  • Trên các đoạn sông suối tàu thuyền không đi lại được đường biên giới sẽ đi theo trung tâm cua dòng chảy hoặc dòng chính. Lễ hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền ngày 23/2/2009 tại cửa khẩu Hữu Nghị, tỉnh Lạng Sơn


- Hiệp ước hoạch định biên giới được hai nước Việt Nam, Trung Quốc chính thức ký ngày 30 tháng 12 năm 1999 và được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn ngày 6 tháng 6 năm 2000 và Quốc hội Trung Quốc phê chuẩn ngày 29 tháng 4 năm 2000. Hiêp ước này mô tả hướng đi của đường biên giới bằng lời văn và thể hiện bằng đường màu đỏ trên bản đồ tỷ lệ 1/500.000. Dựa vào Hiệp ước này, từ tháng 12 năm 2001, hai bên đã tiên hành phân giới, cắm mốc.

- Đến ngày 31 tháng 12 năm 2008, công tác phân giới cắm mốc đã cơ bản hoàn thành. Kết quả là: Chiều dài biên giới chính xác là 1.449,566 km, trong đó có 383, 914 km đường biên giới đi theo sông suối; cắm được 1970 cột mốc, trong đó có 1548 cột mốc chính, 422 cột mốc phụ. Toàn bộ công việc này được tổ chức thực hiện để phân vạch đường biên giới trên thực địa một cách chính xác, cụ thể, rõ ràng, hoàn chỉnh và dược đánh dấu bằng một hệ thống mốc quốc giới chính quy, bền vững và đủ về số lượng trên thực địa. Khi tiến hành phấn giới cắm mốc, hai bên đã vận dụng các nguyên tắc đã thỏa thuận để xử lý những trường hợp có liên quan đến dân cư, tài sản, thực tế quản lý, thậm chí cả đến vấn đề tâm linh, tín ngưỡng…làm sao đảm bảo lợi ích chính đáng cho nhân dân hai bên biên giới.

Thiết nghĩ với những thông tin này có lẽ cũng có thể giúp giải đáp được phần nào những băn khoăn, thắc mắc nói trên.  

Khu vực Núi Đất 

Ông Dương Danh Huy đặt vấn đề rằng: “Khu vực Núi Đất, mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn…và theo thông tin không chính thức từ phía Trung Quốc và phía Việt Nam thì có một mỏm có vẻ như cả hai bên không chối cãi là của Việt Nam, nhưng Trung Quốc đã xây nghĩa trang quân đội trên đó và họ chủ trường là khu vực nghĩa trang là bất khả xâm phạm. Có việc đó hay không? Nếu có thì vì lý do nào mà Việt Nam đã chấp nhận? Vì nhân đạo và địa chính trị, hay vì không có đủ chứng cứ pháp lý, hay lý do nào khác? Tại sao thông tin không được công bố?"
Đúng là có việc Việt Nam đã đồng ý điều chỉnh chút ít hướng đi của đường biên giới ở khu vực có nghĩa trang do Trung Quốc đã xây dựng trước đây, mặc dù về pháp lý đường biên giới mà 2 bên đã xác định là phải đi qua khu vực nghĩa trang này. Theo tôi, đây là nhân nhượng tự nguyên, thỏa đáng, hợp tình hợp lý. 
Theo thông tin mà tôi được biết thì đúng là có việc Việt Nam đã đồng ý điều chỉnh chút ít hướng đi của đường biên giới ở khu vực có nghĩa trang do Trung Quốc đã xây dựng trước đây, mặc dù về pháp lý đường biên giới mà 2 bên đã xác định là phải đi qua khu vực nghĩa trang này.

Theo tôi, đây là nhân nhượng tự nguyên, thỏa đáng, hợp tình hợp lý. Bởi vì đây là nhân nhượng vừa mang tính nhân văn, nhân đạo, vừa phù hợp với nguyên tắc mà hai bên đã thỏa thuận khi xác định đường biên giới đi qua khu vực có sự tồn tại của dân cư khu vực biên giới…như tôi đã đề cập ở phần trên. 

Vịnh Bắc Bộ

Tôi đã đọc bài viết trên BBC của ông Dương Danh Huy có liên quan đến việc phân định Vịnh Bắc Bộ, “Nhìn lại Hiệp định Vịnh Bắc Bộ sau 10 năm”.

Tôi đánh giá cao những nhận xét của ông Dương Danh Huy về bản chất của “đường biên giới trong Vịnh Bắc Bộ” theo Công ước Pháp Thanh 1887. Nội dung của Công ước là:
“Các đảo phía đông kinh tuyến Paris 105 °43, kinh độ đông, tức là đường bắc-nam đi qua điểm cực đông của đảo Tch'a Kou hay Ouan-chan (Trà Cổ) và làm thành biên giới cũng được cho là của Trung Hoa. Các đảo Go- tho và các đảo khác phía tây kinh tuyến này thuộc về An Nam.
Những người Trung Hoa phạm pháp hoặc bị cáo buộc phạm pháp tìm nơi trú ẩn tại các đảo này, sẽ được, theo quy định của điều 27 của Hiệp định ngày 25 tháng Tư năm 1886, tìm kiếm, bắt giữ và dẫn độ bởi Chính quyền Pháp.”
Theo đánh giá của ông Dương Danh Huy thì Công ước không nói rằng kinh tuyến 105°43’ Paris, tức là kinh tuyến 108°3’13’’ Greenwich, là ranh giới phân định biển cho toàn bộ Vịnh Bắc Bộ. Bản đồ đính kèm công ước vẽ ranh giới dọc kinh tuyến 105°43’ Paris từ cực đông đảo Trà Cổ ra biển và ngừng cách đảo khoảng 5 hải lý, tức là chỉ cho một phần rất nhỏ của Vịnh.

Trong chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch Trương Tấn Sang năm 2013, hai nước nói sẽ thăm dò dầu khí chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi vịnh Bắc Bộ

Theo tôi, nhận xét của ông Dương Danh Huy là rất chuẩn xác. Bởi vì, “những điều trên cho thấy, vào năm 1887, trong Vịnh Bắc Bộ, Pháp không cho rằng họ có chủ quyền hay quyền chủ quyền trong vùng biển cách bờ hơn 12 hải lý. Cũng không có chứng cớ là vào thời điểm đó Trung Quốc cho rằng họ có chủ quyền hay quyền chủ quyền trong vùng biển này”“Sẽ hợp lý hơn nếu cho rằng kinh tuyến 108°3’13’’ trong Công ước chỉ phân chia đảo và phân chia lãnh hải ven bờ. Như vậy, công ước Pháp-Thanh chưa phân định phần lớn Vịnh Bắc Bộ, và việc phân định Vịnh Bác Bộ là cần thiết”.

Chính chúng tôi cũng đã có nhận định như vậy trước khi xây dựng phương án đàm phán phân định vịnh Bắc Bộ. Trên tinh thần thật sự khách quan, cầu thị, chúng tôi cũng đã mạnh dạn đề nghị từ bỏ chủ trương khẳng định rằng trong vịnh đã có biên giới theo Công ước Pháp Thanh 1887. Thay vào đó, khi đàm phán phân định vịnh Bắc Bộ, Việt Nam sẽ theo nguyên tắc của Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982. Đó là nguyên tắc thỏa thuận, có tính đến mọi hoàn cảnh liên quan, để phân định vịnh Bắc Bộ đảm bảo tính công bằng mà hai bên có thể chấp nhận được.

Đây thật sự là một bài học quý giá cho những ai đang và sẽ tiếp tục lãnh trọng trách tham gia đàm phán giải quyết các tranh chấp về biên giới lãnh thổ, nhất là những tranh chấp trên các vùng biển và hải đảo trong tình hình hiện nay.

Kết quả là Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được ký kết vào ngày 25 tháng 12 năm 2000. Hiệp định này gồm 11 điều với nội dung chủ yếu là xác định rõ tọa độ địa lý của 21 điểm trên đường phân định lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế, vùng thềm lục địa giữa hai nước; quy định hai bên tôn trọng chu quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi bên tại các vùng biển trong vịnh Bắc Bộ; quy định việc thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên nằm vắt ngang đường phân định và giải quyết các tranh chấp liên quan đến Hiệp định thông qua đàm phán thương lượng. Hiệp định có hiệu lực ngày 15 tháng 6 năm 2004. 

Đường phân định

Từ tình hình nói trên, tôi cũng xin có bình luận thêm về những băn khoăn có liên quan đến cách vạch đường phân định đã được thể hiện trên bản đồ kèm theo Hiệp định này mà ông Dương Danh Huy gọi là “Đường trung tuyến”.

Đúng là “trong phần lớn vùng biển hữu quan trong Vịnh Bắc Bộ, bờ biển Việt Nam và Trung Quốc đối diện nhau. Vì vậy, theo luật quốc tế thì đường trung tuyến có điều chỉnh là nguyên tắc phân định công bằng nhất”.

Tôi không phản bác điều này. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của tôi qua một số bản án cua Tỏa án Trọng tài quốc tế, nhất là vụ xét xử việc phân định biển Manche giữa Pháp và Anh, các thẩm phán có bình luận rằng trung tuyến là phương pháp thường được sử dụng trong phân định, nhưng không phải lúc nào phương pháp này cũng đảm bảo được nguyên tắc công bằng. Bởi vì, trung tuyến sẽ được xác định tính từ các điểm cơ sở nhất định mà những điểm này thì hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiện hữu của các vị trị địa lý được thống nhất lựa chọn nằm dọc theo bờ biển của mỗi bên để tính toán xác định, thông thường thì phải điều chỉnh do phải tính đến các hoàn cảnh, điều kiện có liên quan…

Cho nên, có thể nói rằng khó có thể có một “trung tuyến” duy nhất và đích thực là trung tuyến theo đúng đinh nghĩa khoa học. Trong một khu vực biển có thể có nhiều trung tuyến có điều chỉnh thích hợp, phụ thuộc vào phương pháp tính toán xác định của các chuyên gia kỹ thuật.

Và cũng đúng như luật sư Brice Clagett đã nhận xét, việc vạch ranh giới phải dựa trên cơ sở địa lý, và nguyên tắc tỷ lệ chiều dài bờ biển chỉ là một thước đo phỏng chừng cho sự công bằng. Tác giả bài này cho rằng dù tỷ lệ diện tích bằng tỷ lệ chiều dài bờ biển, vẫn có thể tồn tại những sự bất công mà nguyên tắc tỷ lệ chiều dài bờ biển không phát hiện được. Vì vậy cần phải xét đến các khía cạnh địa lý, quan trọng nhất là đường trung tuyến được vạch giữa những điểm nào và ảnh hưởng của các đảo của Việt Nam và Trung Quốc trong việc vạch và điều chỉnh đường trung tuyến…

Và vì vậy, kết quả phân định đã cho thấy: Ranh giới trong Vịnh Bắc Bộ là một đường trung tuyến có điều chỉnh; Đảo Cồn Cỏ được 50% hiệu lực, đảo Bạch Long Vĩ được khoảng 25% hiệu lực; Tỷ lệ diện tích Việt Nam, Trung Quốc đạt được, 1.135:1, gần bằng tỷ lệ chiều dài bờ biển Việt Nam, Trung Quốc, 1.1:1. Cho nên, theo đánh giá của tôi, với tư cách là một chuyên gia pháp lý, Hiệp định Vịnh Bắc Bộ đã được phân định phù hợp với nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế, hợp tinh hợp lý vì nó đảm bảo được sự công bằng mà hai bên chấp nhận được. Đi vào chi tiết kỹ thuật khi tính toán xác định đường phân định này có lẽ phải nhờ đến các chuyên gia kỹ thuật bản đồ mới đủ điều kiện để giải đáp chuẩn xác.

Nguồn: BBC Tiếng Việt.

-->đọc tiếp...

Mai Thái Lĩnh: THÁC BẢN GIỐC - NHỮNG CĂN CỨ PHÁP LÝ

Thác Bản Giốc - Những căn cứ pháp lý
(Phản biện bài trả lời của ông Trần Công Trục [1])

Mai Thái Lĩnh

Trước hết, tôi ghi nhận thiện ý của ông Trần Công Trục khi ông viết: “tôi mong muốn thông qua quá trình trao đổi, đối thoại để thu hẹp khoảng cách trong nhận thức xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh thổ sao cho có lợi nhất cho công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hợp pháp của quốc gia, dân tộc, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng trên Biển Đông ngày càng gia tăng và tiềm ẩn những nhân tố khó lường.”

Tuy nhiên, để có thể “thu hẹp khoảng cách” trong nhận thức của xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, chúng ta không thể dựa trên ý chí của từng cá nhân, từng nhóm người hay thậm chí dựa trên ý chí của một đảng chính trị – cho dù đảng đó đang nắm giữ bộ máy Nhà nước. Khoảng cách đó chỉ có thể được thu hẹp và tạo nên sự đồng thuận một khi dựa trên quyền lợi chung của toàn dân tộc, và nhất là phải tôn trọng sự thật. Ngày nay, với phương tiện truyền thông có tính toàn cầu, không thể bưng bít sự thật hay tìm cách khuôn sự thật theo ý muốn của một cá nhân hay một nhóm người nào cả.

Về những bằng chứng lịch sử liên quan đến Thác Bản Giốc, tôi có một cách nhìn hoàn toàn khác với ông Trần Công Trục, bởi vì đối với đường biên giới Việt-Trung – vốn là một đường biên giới có lịch sử lâu đời và có liên quan đến sự tồn vong của dân tộc ta, đất nước ta, không thể không đề cập đến phương diện lịch sử. Hơn thế nữa, những bằng chứng lịch sử đó có từ rất lâu – trước khi Đảng Cộng sản nắm chính quyền trên toàn miền Bắc, thậm chí trước khi Đảng Cộng sản ra đời, vì thế không thể nói rằng đó là kết quả của “hệ thống tài liệu tuyên truyền chính thức” trong giai đoạn cuối thập niên 1970 – khi quan hệ giữa hai nước trở nên căng thẳng. Chính vì lẽ đó, tôi đã giới thiệu lại các bài viết của ông Diệp Đình Huyên (tức Hàn Vĩnh Diệp) để chứng minh rằng “Thác Bản Giốc hoàn toàn thuộc về Việt Nam” từ rất lâu và suốt trong thời kỳ quan hệ giữa hai nước vẫn còn hữu hảo, phía Trung Quốc không hề thắc mắc gì về “sự thật” này. Hơn thế nữa, nếu Việt Nam thật sự là một quốc gia dân chủ bảo đảm đầy đủ quyền tự do ngôn luận cho mọi công dân thì sẽ có rất nhiều người noi gương ông Diệp Đình Huyên sẵn sàng đứng ra làm nhân chứng cho “sự thật” đó.

Trong phạm vi của bài phản biện này, tôi tạm thời gác lại khía cạnh lịch sử của chủ đề “Thác Bản Giốc”, để tập trung bàn về những căn cứ pháp lý.

1) Tại sao các tài liệu liên quan đến Thác Bản Giốc và Cồn Pò Thoong không được mang đi đàm phán?

Ông Trần Công Trục viết: “Về nguyên tắc chung tôi đã nói rõ trong bài phỏng vấn ngày 3/9 trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam cũng như nhiều lần đã phân tích, các tài liệu ông Lĩnh nêu ra trên đây mặc dù là tài liệu chính thức của các cơ quan nhà nước Việt Nam ban hành công khai và rộng rãi thời kỳ những năm 1979 nhưng không được xem là “căn cứ pháp lý” được thỏa thuận để làm cơ sở giải quyết tranh chấp biên giới phía Bắc, vì rõ ràng các tài liệu này không phải là bộ phận cấu thành của Công ước Pháp – Thanh 1887, 1895 mà 2 nước Việt Nam, Trung Quốc đã thỏa thuận lấy làm căn cứ pháp lý để hai bên tiến hành hoạch định biên giới.”

Như vậy, theo ông Trục, các tài liệu này không được sử dụng vì “không phải là bộ phận cấu thành của Công ước Pháp – Thanh 1887, 1895 mà 2 nước Việt Nam, Trung Quốc đã thỏa thuận lấy làm căn cứ pháp lý để bai bên tiến hành hoạch định biên giới.”

Thế nhưng, việc lấy hai công ước Pháp-Thanh 1887 và 1895 để làm cơ sở đàm phán trong vấn đề biên giới không phải là điều mới mẻ. Theo cuốn VĐBG (Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc) [2] thì vào năm 1977, để phá vỡ thế bế tắc trong đàm phán biên giới, phía Việt Nam đã đưa ra một “dự thảo hiệp định” [3], trong đó điều 1 có nội dung như sau:

[Điều 1] Hai bên chính thức xác nhận đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được hoạch định và cắm mốc theo các văn kiện về biên giới ký kết giữa Chính phủ Cộng hoà Pháp và Chính phủ nhà Thanh Trung Quốc là đường biên giới quốc gia giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. 

Các văn kiện biên giới đó gồm có: (1) Công ước về hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc ký ngày 26 tháng 6 năm 1887, với các biên bản và bản đồ hoạch định kèm theo. (2) Công ước bổ sung Công ước về hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc ngày 26 tháng 6 năm 1887, ký ngày 20 tháng 6 năm 1895, với các biên bản và bản đồ hoạch định kèm theo. (3) Các biên bản và bản đồ cắm mốc thực hiện hai Công ước nói trên ký kết từ ngày 15 tháng 4 năm 1890 đến ngày 13 tháng 6 năm 1897, ngày hoàn thành việc cắm mốc đoạn đường biên giới giữa Bắc Kỳ (Việt Nam) và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Trong các điều khoản sau đây, các văn kiện về biên giới nói trên được gọi tắt là “ Công ước 1887 và Công ước 1895”.

Nội dung này không có gì khác với “nguyên tắc chung” mà ông Trần Công Trục nêu ra.

Vấn đề đặt ra là: tại sao dựa vào điều khoản căn bản đó, Bộ Ngoại giao Việt Nam vào cuối thập niên 1970 vẫn có đủ căn cứ pháp lý để khẳng định rằng phía Trung Quốc đã “vi phạm ngày càng nghiêm trọng sự thoả thuận đó và không tôn trọng nguyên tắc giữ nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại, và đã lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở 90 điểm trên toàn tuyến biên giới Việt Trung từ 1949 đến nay.”? [4] Bất cứ ai đọc được điều này cũng có thể đặt câu hỏi: Bộ Ngoại giao Việt Nam vào thời kỳ đó đã căn cứ vào hệ thống bản đồ nào và những chứng cứ pháp lý nào để khẳng định Trung Quốc vi phạm đường biên giới?

Mặt khác, ông Trần Công Trục lại viết: “Tôi không phủ nhận những giá trị của các tài liệu chính thức của ta mà ông Mai Thái Lĩnh đề cập, nhưng nó chỉ có giá trị trong thời điểm đó và bối cảnh đó, những tài liệu như vậy không thể mang đi đàm phán.”

Điều này quả thật rất khó hiểu. Hãy lấy một ví dụ: các tài liệu chứng minh “vào năm 1976 Trung Quốc đã dùng vũ lực xâm chiếm cồn Pò Thoong – một địa điểm hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam” thì cho dù vào năm 1979 hay vào năm 1999 cũng đều có giá trị như nhau chứ sao lại “chỉ có giá trị vào năm 1979” và đến thập niên 1990 lại “không thể mang đi đàm phán”?

Để hiểu rõ vấn đề này, có lẽ chúng ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa của các tài liệu mà tôi nêu ra trong bài “Sự thật về Thác Bản Giốc”:

- Tài liệu 1 về việc Trung Quốc đã “sửa bản đồ” vào năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc: đây chính là bằng chứng về việc Trung Quốc đã sửa chữa bản đồ, làm sai lạc vị trí của cột mốc 53; nói cách khác qua tài liệu này chúng ta được biết cột mốc 53 nằm ở vị trí khác chứ không phải nằm ở vị trí của cột mốc 835 (mới) hiện nay (xem bản đồ – hình 1 và hình 2):

15.png
Hình 1: Sơ đồ Thác Bản Giốc được phân chia lại



22.png
Hình 2: Bản đồ khu vực Thác Bản Giốc hiện nay. 
Cột mốc 835 chính là vị trí mới của cột mốc 53

- Tài liệu (2) về việc xây dựng trạm thủy văn trên cồn Pò Thoong vào thập niên 1960: chứng minh vào thập niên 1960, cồn Pò Thoong hoàn toàn thuộc về Việt Nam;

- Tài liệu (3) về việc Trung Quốc đưa quân lấn chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976: chứng minh Trung Quốc đã lấn chiếm cồn Pò Thoong bất hợp pháp, vì vậy việc chia cồn này theo công thức “1 phần 4 thuộc về Việt Nam, 3 phần 4 thuộc về Trung Quốc” là hoàn toàn bất hợp lý;

- Tài liệu (4) gồm hai tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân đội Nhân dân Việt Nam in vào những năm 1976 và 1980: cho phép xác định vị trí của các cột mốc cũng như đường biên giới một cách chính xác (xem bản đồ tại hình 3).

31.png
Hình 3: Vị trí nguyên thủy của cột mốc 53 (Trích bản đồ Trùng Khánh 6354-IV)

Có thể nói: từ bỏ các tài liệu đó đồng nghĩa với việc từ bỏ các vũ khí pháp lý hữu hiệu nhất để bảo vệ “chủ quyền của nước ta đối với cồn Pò Thoong và toàn bộ Thác Bản Giốc”.

Theo ông Trần Công Trục: “Những người làm công tác đàm phán chúng tôi đã nghiên cứu kỹ các tài liệu ông Mai Thái Lĩnh vừa nêu nên chúng tôi rất hiểu và chia sẻ những băn khoăn của dư luận cũng như của ông Mai Thái Lĩnh.” Nếu đã nghiên cứu kỹ thì các vị làm công tác đàm phán không lẽ không biết vị trí nguyên thủy của cột mốc 53? Không lẽ các vị không biết Trung Quốc đã sửa bản đồ để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc? Không lẽ các vị không biết Trung Quốc đã chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và đã “cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới” và như vậy là đã làm biến dạng cồn Pò Thoong?

2) Tại sao lại công nhận vị trí mới của cột mốc 53?

Nhưng tại sao trong khi từ bỏ các chứng cứ pháp lý có sẵn trong tay, các nhà ngoại giao nước ta lại “sốt sắng” công nhận vị trí mới của cột mốc số 53 được đoàn khảo sát “phát hiện” ra tại một địa điểm ngay trước mặt cồn Pò Thoong?

Vào năm 2002, ông Lê Công Phụng trả lời phóng viên Thu Uyên của VASC Orient [5] như sau:

VASC Orient: Chẳng nhẽ tất cả các khách du lịch, trong đó có những người có trách nhiệm, đi thăm thác Bản Giốc mà không phát hiện ra cột mốc nằm đó hay sao?

Ông LCP: Cột mốc không nằm sát Bản Giốc. Khi chúng tôi khảo sát thì mới thấy cột mốc nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối, cách đấy khoảng mấy trăm thước. Vì vậy nên cũng không mấy ai quan tâm đến cột mốc ở thác Bản Giốc.

Điều kỳ lạ là không biết dựa vào bằng chứng nào, ông Lê Công Phụng lại công nhận cột mốc đã được cắm ở đó từ đời nhà Thanh:

VASC Orient: Tức là cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh?

Ông LCP: Đúng vậy. Cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh, xác định chỉ có chưa được một nửa thác Bản Giốc là ở bên phía ta. Theo quy định quốc tế, khi phân giới cắm mốc thì thác được coi như một dòng sông, một dòng suối. Đã là sông suối thì đường biên giới đi qua luồng chính, tức là chỗ tàu thuyền đi lại được. Còn đối với sông suối nơi tàu thuyền không đi lại được, thì đường biên giới phải đi theo rãnh sâu nhất.

4.png
Hình 4: Thứ trưởng Ngoại Giao Việt Nam Vũ Dũng trả lời phỏng vấn 
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hoạt – Tổng Biên Tập báo Dân Quyền (2009)
Vào năm 2009, ông Vũ Dũng – lúc đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, đã dành cho báo Dân Quyền ở Hoa Kỳ một cuộc trả lời phỏng vấn, qua đó ông cho biết:

Trước khi ký hiệp ước 1999, chúng tôi đã cử rất nhiều đoàn đi khắp thế giới để tìm các hồ sơ liên quan đến Thác Bản Dốc, vào tất cả các kho lưu trữ và tìm được một bản đồ tốt nhất về vị trí Thác Bản Dốc. Căn cứ theo bản đồ, đường biên giới đi theo trung tuyến của sông Quây Sơn (đúng như công ước Pháp – Thanh mô tả), khi đó, vẽ đường biên giới đi ở nhánh phía bắc của cồn Pò Tho, có diện tích khoảng 2,7 ha. Ngay bản đồ tốt nhất mà ta tìm được, thác này vẫn là thác chung. Tôi xin khẳng định ta không có bất kỳ tài liệu gì cho thấy thác Bản Dốc là của Việt Nam. Nói về luật pháp quốc tế, sông này là sông chung, thác này không thể là thác riêng được, không thể có nước nào chấp nhận.” [6]

51.png

Tại sao phải cử nhiều đoàn đi khắp thế giới để tìm kiếm trong khi ngay tại Việt Nam đã có những bản đồ 1/50000 rất chính xác? Nhưng “tấm bản đồ tốt nhất” mà ông Vũ Dũng nói là bản đồ nào? Phải chăng đó chính là tấm bản đồ đã được công bố trong một bài báo đăng trên tờ Diễn đàn vào năm 2003? [7] Theo trình bày của ông Nguyễn Ngọc Giao, đây là bản đồ được tìm thấy tại Vụ lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp:

52.png
Hình 5: Bản đồ tìm thấy tại Vụ lưu trữ Bộ ngoại giao Pháp

Nhìn bản đồ này, chúng ta thấy có nhiều nhược điểm: thể hiện không chính xác khu vực xung quanh thác, không có vòng cao độ, không có tọa độ địa lý, không xác định được mặt cắt của thác ba tầng, v.v… Nhưng đường biên giới vẽ trên bản đồ này vẫn cho thấy toàn bộ khu vực thác (hình trái xoan hơi giống quả trứng, trên có chữ chute) thuộc về lãnh thổ nước ta. Không có điều gì chứng tỏ “thác này vẫn là thác chung“. Nếu đặt bản đồ này bên cạnh bản đồ Trùng Khánh 6354-IV, nhờ có các vòng cao độ chúng ta có thể thấy rõ mặt cắt của thác nước nằm xiên góc theo hướng từ bắc – tây-bắc đến đông – đông-nam, và đường biên giới chạy giữa dòng sông về phía hạ lưu thác không hề động chạm gì đến mặt cắt của thác nước. Điều đó chứng tỏ toàn bộ thác nước thuộc về Việt Nam (xem hình 6). Nói cách khác, nếu các nhà đàm phán của Việt Nam có trong tay tấm bản đồ Trùng Khánh 6354-IV, thì họ càng có thêm chứng cứ để chứng minh toàn bộ Thác Bản Giốc là thuộc về lãnh thổ Việt Nam, và có thể xác định dễ dàng vị trí cũ của cột mốc 53.

6.png
Hình 6: So sánh bản đồ tại Bộ Ngoại giao Pháp và bản đồ Trùng Khánh6354-IV

Bây giờ ta thử đặt bản đồ Trùng Khánh 6354-IV bên cạnh tấm bản đồ do Trung Quốc cung cấp [8] (xem hình 7). Chúng ta sẽ thấy rõ: vạch răng cưa trên bản đồ thể hiện mặt cắt của thác nước gần như thẳng đứng theo hướng bắc-nam – khác hẳn thực tế. Hơn nữa, cột mốc 53 đáng lẽ nằm gần đầu mút phía bắc của vạch răng cưa đã bị dời đi một khoảng khá xa đến một vị trí đối diện với cồn Pò Thoong. Chính vì lẽ đó, đường biên giới đáng lẽ phân chia dòng Quây Sơn ở phía hạ lưu của thác nay lại cắt ngang cồn Pò Thoong và chia đôi phần thác chính cho phía Trung Quốc. Nói cách khác, nếu có tấm bản đồ Trùng Khánh trong tay thì ông Lê Công Phụng không thể xác định cột mốc 53 cắm ở vị trí đó “từ đời nhà Thanh” và ông Vũ Dũng không thể chia Thác Bản Giốc cho phía Trung Quốc.

7.png
Hình 7: So sánh bản đồ do Trung Quốc cung cấp với bản đồ Trùng Khánh 6354-IV


Ví dụ minh họa trên đây cho thấy: hoặc các nhà ngoại giao Việt Nam không hề biết đến các tờ bản đồ của QĐND, hoặc họ biết rõ (như lời ông Trần Công Trục đã nói) nhưng lại không được phép dùng, buộc phải sử dụng các tài liệu do Trung Quốc cung cấp. Nhưng nếu không biết thì tại sao ông Trần Công Trục lại khẳng định là đã nghiên cứu kỹ ? Mà nếu đã biết rõ thì tại sao quý vị lại dễ dàng công nhận vị trí mới của cột mốc 53, dẫn đến việc chia cồn Pò Thoong và Thác Bản Giốc? Chính những lời nói mâu thuẫn của các nhà ngoại giao Việt Nam tham gia đàm phán về Thác Bản Giốc đã bộc lộ sự lúng túng, bởi vì họ không dựa trên những tài liệu chính xác có tính khách quan, khoa học.

3) Tại sao không được phép sử dụng những tài liệu pháp lý mà Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng có sẵn trong tay?

Tại sao phía Việt Nam không được quyền sử dụng những tài liệu mà tôi đã nêu trên đây? Tại sao ông Trần Công Trục một mặt “không phủ nhận những giá trị của các tài liệu chính thức của ta” nhưng lại cho rằng chúng “chỉ có giá trị trong thời điểm đó và bối cảnh đó” và đi đến kết luận “những tài liệu như vậy không thể mang đi đàm phán”? “Thời điểm đó” và “bối cảnh đó” có gì khác với “thời điểm” cũng như “bối cảnh” sau này – tức là từ thập niên 1990 cho đến khi hoàn thành việc cắm mốc vào đầu năm 2009?

Theo tôi, để có thể hiểu được điểm tế nhị này, phải đọc kỹ cuốn VĐBG ¬– tức là “bị vong lục” của Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố năm 1979. Như trên đã trích dẫn, vào năm 1977, phía Việt Nam đã đưa ra một dự thảo hiệp định, trong đó điều 1 ghi rõ căn cứ đàm phán là các công ước Pháp Thanh 1887 và 1895. Thế nhưng ngoài điều 1 còn có điều 2 như sau:

[Điều 2] “Hai bên cam kết tôn trọng đường biên giới quốc gia giữa hai nước nói ở Điều 1. Những vùng đất nào do bên này quản lý vượt quá đường biên giới nói ở Điều 1 thì nay trả lại cho bên kia.“ (VĐBG, tr. 23)

Phía Trung Quốc đã bác bỏ bản Dự thảo Hiệp định này. Bộ Ngoại giao Việt Nam viết tiếp như sau: “Phía Trung Quốc đã từ chối xem xét bản dự thảo Hiệp định đó. Họ đưa ra một đề nghị khác, thực chất là đề nghị cũ của họ được sửa đổi. Ý đồ của họ là nhằm duy trì hiện trạng biên giới (không phải nguyên trạng đường biên giới lịch sử) nhằm giữ những chỗ họ lấn chiếm và sửa lại nhiều chỗ có lợi cho họ.” (VĐBG, tr. 26)

Như vậy, đàm phán vào cuối thập niên 1970 bị bế tắc là do chỗ Trung Quốc muốn duy trì “hiện trạng biên giới” chứ “không phải nguyên trạng đường biên giới lịch sử”. Nói cách khác, họ không chịu rút lui khỏi các khu vực mà họ đã dùng vũ lực lấn chiếm. Mục đích của họ là “giữ những chỗ họ lấn chiếm và sửa lại nhiều chỗ có lợi cho họ.”

Về sau, Trung Quốc còn tiếp tục đánh chiếm thêm một số địa điểm khác nữa, ví như cao điểm Núi Đất (1509) ở phía bắc tỉnh Hà Giang, mà phía Trung Quốc đã chiếm vào năm 1984 và đặt tên là Lão Sơn. Nhà văn Phạm Viết Đào đã công bố điều này trên blog của ông và đã phỏng vấn một số sĩ quan từng tham gia các trận đánh này. Rất tiếc là ngày nay nhà văn đã bị bắt giam nên không thể tham gia “đối thoại” với ông Trần Công Trục.

Dựa trên thực tế này, chúng ta có thể đặt câu hỏi: tại sao vào lúc đó Trung Quốc khăng khăng không chịu đàm phán với phía Việt Nam mà mãi đến thập niên 1990 mới thay đổi thái độ, đồng ý đàm phán và tiến hành cắm mốc biên giới? Phải chăng phía Việt Nam đã chấp nhận đàm phán mà không đòi hỏi phía Trung Quốc rút quân ra khỏi các vùng mà họ đã chiếm đóng, nghĩa là chấp nhận đàm phán dựa trên “hiện trạng” thay vì dựa trên “nguyên trạng đường biên giới lịch sử”?

Vào tháng 8 năm 2012, ông Nguyễn Trung – cựu đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, đã công bố bài viết “Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990” [9], trong đó có đoạn:

“Nhìn lại hơn 20 năm qua, điểm lại toàn bộ những việc trong quan hệ hai nước đã làm được, từ đàm phán biên giới trên bộ và dưới biển, phát triển quan hệ kinh tế, việc Trung Quốc trúng thầu hàng trăm công trình kinh tế quốc gia quan trọng của Việt Nam, thuê đất, thuê rừng, bô-xít Tây Nguyên, ti-tan ven biển miền Trung, những hoạt động tăng cường quan hệ thực ra là nhằm tăng cường chi phối nhân sự nước ta, những hoạt động tăng cường giao lưu.., tất cả đều chịu sự chi phối sâu sắc của quyền lực mềm Trung Quốc.”

Việc các nhà ngoại giao Việt Nam không được phép sử dụng các tài liệu pháp lý về Thác Bản Giốc có liên quan gì đến “sự chi phối sâu sắc của quyền lực mềm Trung Quốc” mà ông Nguyễn Trung vừa nêu hay không? Phải chăng Hội nghị cấp cao tại Thành Đô (tháng 9 năm 1990) – một hội nghị cực kỳ bí mật trong đó các nhà lãnh đạo hai bên đàm phán chuyện gì và cam kết điều gì cho đến nay vẫn chưa ai biết rõ, chính là khởi điểm của sự thay đổi lập trường của phía Trung Quốc trong vấn đề biên giới trên bộ? Và phải chăng sự thay đổi lập trường đó đồng nghĩa với việc phía Việt Nam chịu từ bỏ điều 2 trong Dự thảo Hiệp định năm 1977, nghĩa là không đòi hỏi Trung Quốc phải trả lại cho phía Việt Nam những vùng đất “vượt quá đường biên giới nói ở Điều 1“?

Nếu những điều suy đoán trên đây là đúng sự thật thì trách nhiệm chính không thuộc về các nhà ngoại giao Việt Nam – dù là tầm cỡ như các ông Lê Công Phụng, Vũ Dũng hay Trần Công Trục. Nó thuộc về trách nhiệm của một cơ quan quyền lực cao hơn –một cơ quan quyền lực không chịu sự chi phối của bất cứ cơ quan quyền lực Nhà nước nào trên đất nước Việt Nam, một cơ quan quyền lực có thể quyết định bất cứ điều gì và không bị ai kiểm soát.

Ông Trần Công Trục viết: “Và về quy trình đàm phán, chúng tôi đã có bài phân tích cụ thể trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, trong đó nói rõ đường biên giới chủ trương do nhóm chuyên gia thực hiện công phu và nghiêm túc đã phải được các tỉnh có đường biên giới đi qua xác nhận, các bộ ngành có liên quan xác nhận, trong đó có Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, được Quốc hội chấp thuận thông qua, chúng tôi mới đem đi đàm phán.”

Tôi hoài nghi ý kiến này, nhất là về vai trò của Quốc hội. Không biết khi nói “Quốc hội chấp thuận thông qua”, ông Trục muốn nói đến “Ủy ban Thường vụ Quốc hội”, “Đảng đoàn tại Quốc hội” hay “toàn thể Quốc hội”? Nếu quả thật Hiệp định biên giới năm 1999 đã được toàn thể Quốc hội chính thức thông qua thì xin ông vui lòng cho biết phiên họp đó diễn ra lúc nào, nội dung thảo luận ra sao và khi biểu quyết, đã có bao nhiêu đại biểu tán thành, bao nhiêu phản đối, bao nhiêu bỏ phiếu trắng (kèm theo danh tính của các đại biểu đã biểu quyết từng loại phiếu).

Biên bản của phiên họp đó chắc chắn sẽ là một tài liệu vô cùng quý giá để các thế hệ sau này tham khảo khi cần xác định công, tội của từng vị đại biểu trước lịch sử và trước nhân dân Việt Nam. Nhưng riêng tôi, tôi không tin rằng đã có một phiên họp như thế.

Đà Lạt, 15/9/2013
MAI THÁI LĨNH
______________________
[1] “Ts Trần Công Trục trả lời ông Mai Thái Lĩnh về thác Bản Giốc“, Giáo dục Việt Nam, Thứ ba 10/09/2013:
[2] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1979
[3] Tên đầy đủ là “Dự thảo Hiệp định về đường biên giới quốc gia trên bộ giữa Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, VĐBG, sđd, tr. 21-26.
[4] VĐBG, sđd, tr. 8.
[5] Có thể xem nguyên văn bài phỏng vấn Thứ trưởng Ngoại giao Lê Công Phụng công bố trên VASC – Orient 2-2-2002 được lưu giữ tại địa chỉ:
[6] Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hoạt – Tổng biên tập báo Dân Quyền phỏng vấn Thứ trưởng Ngoại Giao Vũ Dũng, Dân Quyền 13-3-2009:
Tôi ghi nguyên văn, kể cả những lỗi chính tả (vd: Bản Dốc, Pò Tho, v.v…)
[7] Nguyễn Ngọc Giao, “Từ Nam Quan đến Bản Giốc”, Diễn Đàn số 129 tháng 5/2003.
[8] Bản đồ này cũng do báo Diễn đàn công bố trong bài báo nói trên.
[9] “Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990”, Bauxite Vietnam 13/8/2013:

Nguồn: Ba Sàm
-->đọc tiếp...

Thứ Tư, 4 tháng 9, 2013

Nguyễn Đình Ấm: ÔNG TRẦN CÔNG TRỤC CÓ BỊ OAN KHÔNG?


Ông Trần Công Trục có bị oan không?

Nguyễn Đình Ấm
Nếu như việc này là sòng phẳng, minh bạch thì không có lý gì lại không công khai rộng rãi thậm chí nếu có sự nhường, đổi chác với nước ngoài (là việc bình thường trong hoạch định lại biên giới) thì cần phải trưng cầu dân ý. Việc các ông ký hoạch định biên gới với nước đã nhiều lần xâm lược nước ta, có nhiều tin đồn năm 1979 TQ còn chiếm nhiều cao điểm của ta, có việc đó hay không, nếu có, họ có trả cho ta hay không…mà hầu hết dân không được biết kết quả cụ thể như thế nào là chuyện không bình thường.”

Hôm nay lại giật mình tình cờ đọc được tin ông TS Trần Công Trục nguyên trưởng ban biên giới quốc gia trả lời báo chí về việc đàm phán biên giới giữa VN và Trung Quốc năm 1999 với tiêu đề: “Sòng phẳng khi đàm phán biên giới”. 

Trong bài này, ông Trục nói dư luận nghi ngờ các ông đàm phán không sòng phẳng với Trung Quốc (chịu thiệt với TQ).Ông nói “…ngay cả nhiều người làm việc cho chính phủ VN vẫn mơ hồ, lăn tăn về các hiệp định với TQ…”,“ Thế nhưng những tiếng nói chỉ chích đặc biệt trong giới bất đồng chính kiến vẫn nói rằng không tin về đường biên giới Việt –Trung rất mờ mịt…Luồng thông tin này cũng cáo buộc đảng CSVN dường như tìm cách che giấu tình hình đường biên giới mới…Tôi từng bị chửi là bán đất ông cha cho TQ”….

Đặc biệt, ông nói chỗ cụ thể về thác Bản Giốc và ải Nam Quan(Hữu nghị quan): “ Chính phủ VN nói phần thác phụ của thác Bản Giốc hoàn toàn thuộc phía VN, còn phần thác chính đổ thẳng xuống sông Quây Sơn là sông chung biên giới, hai nước đã tiến hành phát triển du lịch, kinh tế tại khu vực thác” và ông giaỉ thích về hiện nay một nửa thác Bản Giốc và ải Nam quan không phải của VN là: “Xuất phát từ tài liệu lịch sử, văn học, sách giáo khoa, đã đi vào tiềm thức người VN rằng thác Bản Giốc là của VN, nước VN kéo dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu, đó là văn chương còn về mặt pháp lý khi hai bên đàm phán không thể quay lại văn chương những yếu tố mơ hồ để khẳng định…”.

Theo tôi, ông TCT cũng như nhà cầm quyền VN không thể trách “ nhóm CBNV quan tâm lo lắng chủ quyền” hay nhóm thứ hai“ những đối tượng, thế lực muốn lật đổ, bôi nhọ chính thể thông qua câu chuyện về chủ quyền lãnh thổ…” nghi ngờ các ông là phải, bởi vì:

 - Việc liên quan đến cương thổ quốc gia ngàn đời cha ông để lại thuộc lĩnh vực thiêng liêng nhất của dân tộc nhưng việc đàm phán, ký kết, phân định danh giới cụ thể, sự thay đổi lãnh thổ ở từng địa phương như thế nào mà hầu hết người dân-chủ nhân đất nước- có  được biết, được hỏi ý kiến hay chưa? Nếu như việc này là sòng phẳng, minh bạch thì không có lý gì lại không công khai rộng rãi thậm chí nếu có sự nhường, đổi chác với nước ngoài (là việc bình thường trong hoạch định lại biên giới) thì cần phải trưng cầu dân ý. Việc các ông ký hoạch định biên gới với nước đã nhiều lần xâm lược nước ta, có nhiều tin đồn năm 1979 TQ còn chiếm nhiều cao điểm của ta, có việc đó hay không, nếu có, họ có trả cho ta hay không…mà hầu hết dân không được biết kết quả cụ thể như thế nào là chuyện không bình thường. Đặc biệt, sau khi tàu thăm dò dầu khí Bình Minh02 của VN đang hoạt động trong lãnh hải của ta bị tàu TQ quấy nhiễu, cắt cáp…ông Nguyễn Duy Chiến phó chủ nhiệm ủy ban biên giới- đồng nghiệp của ông- nói: “Hành động đó của TQ chỉ là thương cho roi cho vọt”, tức coi TQ như bố, mẹ VN. Đặc biệt TQ liên tục quấy phá biển Đông, đốt phá tàu thuyền, bắt bớ hành hạ dân ta, liên tục xây công trình  trên đảo Hoàng Sa, Trường Sa, làm tem, sách nhận…hai quần đảo là của mình nhưng ta vẫn chỉ phản ứng yếu ớt, chiếu lệ, không dám gọi tên TQ mà phải “tàu lạ, tàu nước ngoài…”; các ngày lịch sử chống Pháp, Mỹ ta tuyên truyền rùm beng cả những trận đánh nhỏ còn những trận lớn TQ xâm lược giết hại dã man bao đồng bào, chiến sĩ ta thì không dám nhắc đến… Vậy VN ký biên giới trong hoàn cảnh “khốn khổ” với một kẻ đã xâm lược, luôn quấy nhiễu VN lại bị chính đại diện người VN( trong lĩnh vực biên giới) nhận thân phận như con cái họ lại không công khai rộng rãi…thì dư luận nghi ngờ sự sòng phẳng cũng là điều dễ hiểu.

- Đặc biệt nữa, trong bài trả lời phỏng vấn ông lẩn tránh không nói rõ ải Nam Quan, thác Bản Giốc trước kia của ai, nay của ai mà lại lửng lơ: “Chính phủ VN nói phần thác phụ của thác Bản Giốc hoàn toàn thuộc phía VN còn phần thác chính đổ xuống sông Quây Sơn là sông chung biên giới, nay hai nước tiến hành du lịch, kinh tế”. Cái mà dư luận đòi hỏi thác BG trước kia và bây giờ ai sở hữu nhưng ông lại đi mô tả trạng thái dòng sông rồi nói như hai nơi này không phải của VN mà do văn chương, sách giáo khoa “nhận vơ”…

Tôi khẳng định với ông từ xưa không có ai nói TQ có phần ở thác Bản Giốc, nhiều người ở địa phương khẳng định từ trước 1999 chưa bao giờ TQ người ở hoặc có hoạt động gì ở thác này ngoài người VN, chỉ sau khi ký hiệp định họ mới ồ ạt xây nhà cửa, công rình…Có thật sách giáo khoa bao nhiêu năm qua dạy các thế hệ người VN sai sự thật, “nhận vơ” thác Bản Giốc , ải Nam Quan…của “bạn 4 tốt”?

Về ải Nam Quan, trước năm 1999 cũng chưa có ai nói là của TQ, sách trắng “Vấn đề biên giới giữa VN và TQ” do nhà xuất bản sự thật HN năm 1979 vẫn khẳng định “…ở cửa khẩu Hữu nghị quan, (ải Nam Quan) thuộc tỉnh Lạng Sơn. Vậy tỉnh Lạng Sơn là của VN hay TQ? Thực tế, đã biết bao người qua bao thế hệ từng công tác, đến, đi qua ải này thì hỏi họ xem ải đó là của ai?

Ngoài ra, còn rất nhiều điểm trên thực địa và tài liệu chưa rõ ràng gây nghi ngờ khác, ví dụ: Trong bài “Kết quả hiệp định biên giới năm 1999” bách khoa toàn thư tiếng Việt nêu rõ: “Một nhượng bộ lớn của VN là khoảng cách 300 m cuối tuyến đường sắt từ Đồng Đăng đến đường  biên giới cũ đã phải cắt cho TQ”.

Vậy ông giải thích về các điểm trên như thế nào?

Như thế, việc “thế lực bất đồng chính kiến” hoặc không bất đồng nghi ngờ các ông trong hiệp định biên giới thì có oan không?
NĐA


Ba Sàm bình thêm: Lại phải nhắc lần nữa vụ ông Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Dũng từ nhiều năm trước đã tuyên bố ngon lành là sẽ công khai toàn bộ bản đồ chi tiết của Hiệp định Biên giới với Trung Quốc, nhưng cho tới giờ vẫn mờ mịt. Xin mời xem lại thông tin cách đây hơn 5 năm: Hiệp ước về Biên giới Đất liền Việt Nam-Trung Quốc (RFA). Khi đó ông thứ trưởng này vẫn lớn giọng “… không thể có chuyện “Việt Nam mất đất”, cắt đất, cho nước này nước kia như một số mạng nước ngòai đưa tin … chỉ có thể giải thích rằng những mạng này họặc do thiếu thông tin, họăc cố tình làm sai lệch thông tin vì những ý đồ khác nhau.

Còn ”nhận định của nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn, tác giả cuốn sách dầy gần 900 trang có tựa đề “Biên giới Việt Trung, 1885-2000, lịch sử hình thành và những tranh chấp”, do nhà xuất bản Dũng Châu ấn hành tại Pháp năm 2005 thì “Cái khó khăn của những người làm nghiên cứu hiện nay là, cái bản đồ đính kèm hiệp định ký ngày 30/12/1999 lại chưa đựơc công bố. Chỉ có khi nào đựơc công bố, thì mới có thể so sánh bản đồ ấy với bản đồ đã ký năm 1887 thì mới biết nó xê xích thế nào. Bản đồ chính thức chưa công bố thì không thể nào dựa trên cái gì để kết luận chính thức hết.”


-->đọc tiếp...