Blogger Widgets
Hiển thị các bài đăng có nhãn Video. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Video. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 7 tháng 12, 2013

SUY NGHĨ VỀ TUYÊN BỐ TỪ ĐẢNG CỦA LÊ HIẾU ĐẰNG - Thơ Bùi Chí Vinh

Suy nghĩ về tuyên bố ra khỏi Đảng 
của Lê Hiếu Đằng 
Thơ Bùi Chí Vinh 

Ở trong Đảng, anh rất khổ
Chim không dám hót trong lồng
Cá không dám bơi dưới nước
Người biết nói bỗng như câm

Không có Đảng, anh cũng khổ
Áo cơm đong đếm bằng tiền
Dân chủ đổi bằng sinh mạng
Tự do mua tại xà lim

Đi hết “Con Đường Đau Khổ”
Để thương “Những Kẻ Khốn Cùng”
Tolstoi, Hugo soi đuốc
Ban ngày vẫn tối mênh mông
Anh tuyên bố ra khỏi Đảng
Cái chết nhẹ hơn lông hồng
Bao tham, sân, si ngạo mạn
Trong chớp mắt thành hư không

Quyết định đi ra khỏi Đảng
Anh đứng về phía nhân dân
Trả lại hư danh, địa vị
Láo liên một lũ gian thần !


7-12-2013

Theo FB  Bùi Chí Vinh 

Lê Hiếu Đằng: 
Chủ Nghĩa Xã Hội chỉ là ảo tưởng!

-->đọc tiếp...

Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

NHÂN KỶ NIỆM 90 NĂM NGÀY SINH NHẠC SĨ VĂN CAO (15.11.1923 - 15.11.2013)



Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhạc sỹ thiên tài Văn Cao
(15-11-1923 – 15-11-2013)
Lời tác giả:  Tôi không phải là người đam mê nhạc và cũng không am hiểu nhạc, nhưng lại rất thích nghe nhạc Tiền chiến (Tân nhạc hay nhạc lãng Việt Nam trước 1945). Và trong số các nhạc sỹ Tiền chiến thì mê đắm nhất Văn Cao với bốn ca khúc bất hủ: Cung đàn xưa, Trương Chi, Thiên Thai, Bến xuân. Tôi cũng muốn được chia sẻ cuộc đời đầy bi hùng của ông. Bởi sau ánh hào quang ngắn ngủi của thời Tiền chiến và những năm kháng Pháp, người nhạc sỹ thiên tài này đã dính vào vụ Nhân văn giai phẩm đầy oan khiên, để rồi nghe nói, ông ngồi bất động suốt ba mươi năm.
Xin tưởng niệm Người bằng việc nghe lại khúc Cung đàn xưa.

Nhớ giai điệu u buồn Cung đàn xưa
Đào Tiến Thi
Nhạc sỹ Văn Cao lớn lên và bước vào nền Tân nhạc Việt Nam tại đất cảng Hải Phòng. Từ nhỏ sống với cha trong nhà máy bơm nước, kê tấm phản bên cạnh cái máy bơm làm bàn học, lớn lên đi làm ở nhà bưu điện rồi thất nghiệp, thế nhưng mảng nhạc tình của ông trước Cách mạng tháng Tám, viết trên cái nền bụi bặm của phố cảng và giữa cuộc sống nghèo khó, bấp bênh của mình, lại không gợn chút “bụi trần”. Cung đàn xưa, Thiên thai, Suối mơ, Bến xuân, Buồn tàn thu,... đều như những cõi mộng đẹp của một tâm hồn yêu đời, ham sống.
Riêng Cung đàn xưa có vẻ mông lung, khó hiểu. Chính Văn Cao cũng chỉ nói chung chung đây là “tiếng nói của kỷ niệm”, cái kỷ niệm “nó cứ đeo đẳng, không thể quên được”, về “những điều đã mất trong những những ngày tuổi trẻ của mình[1]”.
Lấy trong ý tứ mà suy[2]thì đây là kỷ niệm về một mối tình, một mối tình thoáng qua (hoặc cũng có thể là mối tình trong tưởng tượng) nhưng để lại dư vị đầy tiếc nuối.
Có một nàngbỗng nhiên xuất hiện và “xe kết” cùng chàng. Tác giả không tả cuộc tình mà chỉ tả cảm giác hiện tại và hồi tưởng lại cảm giác quá khứ. Mở đầu bằng hình ảnh “cây đàn bỏ quên”, tượng trưng mùa xuân tàn, cho cuộc tình duyên đã lỡ:
Hồn cầm phong hương hình dáng xuân tàn
Ngày dần buông trôi sầu vắng cung đàn
Từ người ra đi chờ vắng tin người
Từ người ra đi là hết mơ rồi.
Chữ phong hương các ca sỹ thường hát là phong sương và hầu hết các bản nhạc cũng in như vậy. Nhưng bản in trong hồi ký Phạm Duy nhớphong hương, và theo tôi như thế hợp lý và hay hơn. Phong sương là “gió sương”, không ăn nhập gì ở đây. Còn phong hương là “gói kín mùi hương” lại. Hồn cầm phong hương hình dáng xuân tàn có thể hiểu là: hương sắc mùa xuân đã được phong kín trong hồn đàn, nhìn vào cây đàn chỉ thấy hình dáng xuân tàn mà thôi, ngụ ý rằng người đẹp đã đi rồi, tất cả đều tàn tạ, Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan[3]. Từ nỗi ngậm ngùi ấy, tác giả chuyển nhanh sang hồi tưởng:
Cung thương là tiếng đàn
Cung nam là tiếng người
Ai oán khúc ca cầm châu rơi
Tình duyên lãng đãng nhớ thương dần pha phôi.
Mối tình cũ như tiếng đàn, tuy đã tắt nhưng còn ngân mãi trong lòng người. Nhưng tiếng đàn ấy không tươi vui nữa mà buồn xa vắng, buồn tái tê:
Cung đàn ngân buồn xa vắng trong tiếng thầm
Buồn tê tái trong tiếng ngân, buồn như lúc xuân sắp tàn
Ơi đàn xưa còn vương nhắc chi tới người
Lòng ta tắt bao thắm tươi u hoài duyên đưa.    
Và cái nhức nhối nhất là quá khứ không chịu trở thành kỷ niệm, nó cứ sống mãi cùng hiện tại, đặc biệt khi xuân về: 
Chiều năm xưa
 gót hài khai hoa/ mắt huyền lưu xuân/ dáng hồng thơm hương
Chiều năm nay
bóng người khơi thương/ tiếng đàn gieo oan/ giấc mộng chàng Trương
Về ba hình ảnh trong câu nhạc thứ nhất, nhạc sỹ Phạm Duy viết:
“Những cô hái mơ, cô bán hoa, cô hàng nước, cô lái đò, cô láng giềng xuất hiện trong các bản nhạc tình thuở đó làm sao mà có được những gót hài khai hoa, mắt huyền lưu xuân, dáng hồng thơm hương như trong bản Cung đàn xưa của Văn Cao? Chỉ cần có 12 chữ và chỉ để xưng tụng một người tình tưởng tượng mà thôi, Văn Cao đã đưa nhạc tình Tiền chiến lên tới một cao độ vượt khỏi những khuôn sáo cũ mèm[4]”.
Cái “khuôn sáo cũ mèm” mà Phạm Duy nói đến có lẽ là những cô hái mơ, cô bán hoa,… trên kia vẫn chưa thực sự thoát khỏi tính ước lệ của thơ ca cổ điển. Ca khúc tình yêu trong nhạc Tiền chiến phát triển theo quy luật tương tự Thơ mới. Nghĩa là ban đầu chỉ dám nói đến thứ tình yêu xa xăm, nặng về tưong tư sầu mộng:
Em chỉ là người em gái thôi
Người em sầu mộng của muôn đời
Tình anh như tuyết giăng đầu núi
Vằng vặc đêm thu nét tuyệt vời.
(Lưu Trọng Lư)
Và không phải ngẫu nhiên mà những bài hát đầu tiên của nền Tân nhạc (nhạc Tiền chiến), đã phổ nhạc một số bài thơ đầu của Thế Lữ, Nguyễn Bính. Nhưng Văn Cao xuất hiện đã đem đến cho nhạc tình Tiền chiến một hơi thở mới: cái đắm say nồng nàn. Giống như Xuân Diệu đã đem đến cái đắm say nồng nàn cho Thơ mới vậy.
Trở lại câu thơ nhạc nói trên của Văn Cao, có thể nói, người nhạc sỹ – thi sỹ trẻ Văn Cao đã đặt người yêu của mình ở vị trí tuyệt mỹ mà vẫn thực. Nó vừa ước lệ theo kiểu Làn thu thuỷ nét xuân sơn[5]của văn chương cổ điển lại vừa gợi tả một người con gái  có dáng, có da, có nét, có cả chất sexynữa. Người đẹp lướt qua như một làn gió, không hình không ảnh mà lại rõ mồn một bởi cảnh hoa nở tưng bừng theo gót chân nàng. Mắt nàng sâu thẳm chứa đầy một mùa xuân tình ái. Nàng đi đến đâu ngát thơm đến đấy. Nàng lãng đãng xa xôi từ chốn Bồng Lai đến với “gót hài khai hoa”, rồi tình tứ mặn màvới “mắt huyền lưu xuân” và thoắt cái, nồng nàn say đắm với “dáng hồng thơm hương”. Nhưng cái nồng nàn say đắm của Văn Cao cũng khác Xuân Diệu. Nếu Xuân Diệu “Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực” – thiên về tả thực, nhiều tính nhục cảm, thì Văn Cao thiên về gợi cảm, cho nên nồng nàn mà vẫn thanh tao, trần thế mà vẫn là người của chốn Đào Nguyên. Ta cảm nhận cái thơm tho của ái tình hơn là mùi vị của khứu giác.
Nàng đến nhanh mà đi cũng rất nhanh. Chiều năm xưa vừa mới rực rỡ thì chiều năm nay đã điêu tàn: Chiều năm nay/ bóng người khơi thương/ tiếng đàn gieo oan/ giấc mộng chàng Trương. Người đi rồi, chỉ còn lại bóng, khơi thêm vết thương lòng. Người đi rồi, tiếng đàn bây giờ là tiếng gieo oan (cất lên lời an oán). Người đi rồi, bây giờ ta chỉ yêu bằng mộng, giấc mộng của chàng Trương, giấc mộng xa vời, không bao giờ thành.
Theo hồi ký của Phạm Duy, thì chữ “gieo oan” được chép là “giao hoan”. “Tiếng đàn giao hoan” phải chăng là tiếng đàn gợi nhớ cuộc giao hoan? Nghĩa đen của từ này là “cùng vui với nhau” (Thêm nến giá nối hương bình / Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan- Truyện Kiều), ở đây có thể hiểu là tiếng đàn gợi nhớ cuộc gặp gỡ đẹp của đôi lứa. Chàng nhấm nháp khoảnh khắc yêu đương cũ,rõ ràng có thực mà bây giờ như trong mơ, như mối tình của chàng Trương Chi thuở trước. Và nếu ta hiểu là tiếng đàn “giao hoan” thì “giấc mộng chàng Trương” cũng bớt phần bi luỵ. Nó như một khát vọng về hạnh phúc không thể với tới, chứ không phải một tình yêu đơn phương.
Đoạn kết trở lại nỗi ngậm ngùi thấm thía khi đã biết chắc cuộc tình này một đi không trở lại.
Giờ còn mong chi người hát theo đàn
Giờ còn mong chi hợp cánh hoa tàn
Lời đàn năm xưa xe kết đôi lòng
Lời đàn năm nay đôi lứa xa vời
Khi hôn hoàng xuống dần
Trăng lên vàng mái lầu
Nghe thoáng tiếng kinh cầu xa xa
Ngàn lau thấp thoáng bóng kinh kỳ sầu bao la.
Bài này chưa phải là đỉnh cao nhất trong nhạc tình của Văn Cao trước Cách mạng. Khát vọng tình yêu và hạnh phúc còn được Văn Cao tiếp tục phát triển ở hai tuyệt tác Trương ChiThiên Thai. Tuy nhiên, nếu so sánh với nỗi “thất tình” trong Trương ChiThiên Thai thì trong Cung đàn xưa, ít bi luỵ hơn. Cung đàn xưa chủ yếu vẫn là dư vị ngọt ngào của mối tình đầu. Duyên đã lỡ nhưng tình thì còn mãi. Hạnh phúc tuy ngắn ngủi nhưng thực sự đã chạm đến chứ không phải là điều huyễn hoặc.
Có nhiều ca sỹ hát bài này, mỗi người mỗi vẻ, nhưng Ánh Tuyết thật xứng đáng là người giải nhất chi nhường cho ai[6]. Với giọng ca Cao như thông vút, buồn như liễu[7], với ánh mắt u buồn, sâu thẳm, Ánh Tuyết nồng nàn mà không suồng sã, buồn mà không bi luỵ, người nghe cảm nhận một tình yêu vừa lãng mạn cổ điển lại vừa đắm say hiện đại.
(Bài đã đăng TC Thế giới trong ta)



[1] VDC Suối mơ – Hãng phim Trẻ, 1999
[2] Nguyễn Du – Truyện Kiều
[3] Nguyễn Du – Truyện Kiều.
[4] Phạm Duy – Tân nhạc Việt Nam buổi ban đầu, NXB Trẻ, 2006.
[5] Nguyễn Du Truyện Kiều.
[6] Nguyễn Du Truyện Kiều
[7] Thơ Thế Lữ.
-->đọc tiếp...

Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2013

Tương Lai: SỨC LAY ĐỘNG CỦA "DẬY MÀ ĐI!"

Sức lay động của "Dậy mà đi!"

GS. Tương Lai 

Có lẽ những chàng trai cô gái say sưa hát bài "Dậy mà đi" để chào đón Đinh Nhật Uy buộc phải được trả tự do tại Tòa án Long An hôm 29.10.2013 không biết và cũng không cần biết rằng bài đó ra đời từ trong nhà tù thực dân năm 1941, khi đất nước còn nằm trong xiềng xích nô lệ. Bài thơ làm trong nhà tù thuở ấy tự nhắc nhở:

"Ai chiến thắng mà không hề chiến bại
Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần?
Huống đường đi còn lắm bước gian truân
Đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu"!
 


Thế rồi một phần tư thế kỷ sau, lời thơ được biến tấu thành ca từ của một bài hát cùng tên với điệp khúc "Dậy mà đi, dậy mà đi, hỡi đồng bào ơi" ra đời trong phong trào đấu tranh chống chế độ Sài Gòn của sinh viên và thanh niên Miền Nam những năm 1966- 67. Để rồi hôm nay, lớp trẻ cháy bỏng khát vọng tự do, dân chủ lại đang hát vang khúc ca đòi bẻ gãy những xiềng xích mới.

Lịch sử đang đi những bước oái oăm!

Câu hát năm nao bỗng như một lời tiên tri "Đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu". Nếu cứ cho đó là một câu "tiên tri" thì câu "tiên tri" ấy đang biến thành lời giục giã cho cuôc chiến đấu mới "Ai nên khôn không khốn một lần" rồi trào dâng thành một làn sóng dập dồn: "Hát cho dân tôi nghe, tiếng hát tung cờ ngày nào. Hát cho đêm thiên thu... Hát âm u trong đêm, muôn cánh tay đang dậy lên...". 

Thế rồi, "tiếng hát tung cờ ngày nào" giờ đây vang lên để vạch mặt những kẻ nhân danh lá cờ ấy để tròng một thứ xiềng xích mới lên cuộc sống của đất nước. Xiềng xích ấy đang đè nặng lên tâm tư của cả một dân tộc vốn hiểu rõ chân lý‎ không có gì quý‎ hơn độc lập tự do. Những kẻ nhân danh lá cờ ấy đang đặt những gông cùm mới lên cuộc sống của tuổi trẻ yêu nước không cam chịu cúi đầu trước bọn xâm lược phương Bắc thực thi chủ nghĩa bành trướng Đại Hán. 

Những kẻ đang cúi đầu trước bọn xâm lược lại đang đang cắm chính lá cờ ấy trên nóc nhà tù, trại giam nhan nhản khắp cả nước để uy hiếp, trấn áp những người yêu nước, bóp chết khát vọng dân chủ, tự do và quyền con người, nhằm củng cố cho một chế độ toàn trị phản dân chủ, phản tiến hóa đang bị lung lay từ chân móng. Lá cờ ấy đang bị hoen ố bởi những hành động đáng xấu hổ mà chế độ toàn trị phản dân chủ này đang gây ra cho cả dân tộc, xúc phạm đến anh linh những thế hệ Việt Nam đã nằm xuống để bảo vệ mảnh đất thiêng của tổ quốc mà vì điều thiêng liêng ấy, cả núi xương, sông máu đã phải đổ ra. Thế hệ trẻ hôm nay quyết không để cho lá cờ ấy bị hoen ố. Sức lay động của tiếng hát "Dậy mà đi" khởi nguồn từ đó. 


http://www.youtube.com/watch?v=9338gJhe0Qk


Tiếng hát đón chào Đinh Nhật Uy, từ tòa án Long An bước ra là để tuyên bố trước toàn thế giới một chuyện đáng xấu hổ: Việt Nam có lẽ là nước đầu tiên một công dân bị bỏ tù vì đã sử dụng Facebook, một trong những thành tựu văn minh mà loài người có được từ cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, trước hết là công nghệ thông tin! Đương nhiên Viện Kiểm sát và Tòa án tỉnh Long An gắng gượng viện dẫn bằng được những điều khoản này nọ để ghép “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” theo khoản 1 Điều 258, BLHS cho Đinh Nhât Uy. Luật sư Hà Huy Sơn đã bác bỏ tất cả những điều đó và đòi "trả tự do ngay tại phiên tòa cho ông Đinh Nhật Uy".

Thật ra, với Tòa án của một chế độ toàn trị quen với những bản án "bỏ túi" thì lời lẽ và luận cứ của luật sư chỉ là vật trang sức rẻ tiền, họ bỏ ngoài tai. Họ không thể tuyên Đinh Nhật Uy vô tội và do đó phải được trắng án, phải được bồi thường. Bước đi oái oăm của lịch sử đang dẫm lên vết nhơ này. Chúng ta muốn xây dựng một nước "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn", nhưng chế độ toàn trị phản dân chủ này đang làm ngược lại mong muốn đó. Nó đang phản bội lại lý tưởng cao đẹp của những người từng "dậy mà đi" trên con đường giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Vì vậy mà hôm nay, tuổi trẻ lại đang phải "hát âm u trong đêm, muôn cánh tay đang dậy lên...". 

Bản án dành cho Đinh Nhật Uy rồi cũng sẽ là bản án dành cho những người có lương tri, lương năng đang và sẽ sử dụng những thành tựu của văn minh để làm cho cuộc sống văn minh hơn, đàng hoàng hơn, tươi đẹp hơn. Họ, trước hết và chủ yếu là một thế hệ mới của những người đấu tranh cho dân chủ mà internet là công cụ rất tiện ích và có tiềm năng rất lớn. Họ lại là những người rất trẻ, đủ lòng dũng cảm và trí sáng tạo để thể hiện khát vọng của họ. Họ dùng blog và mạng lưới xã hội để trao đổi thông tin và bày tỏ tình cảm, ý nghĩ của mình, điều mà chế độ toàn trị rất kiêng kỵ! Kiêng kỵ như người ta đã từng kiêng kỵ "xã hội dân sự dân sự”.

Một nhà nước pháp quyền đàng hoàng sẽ không thể kết tội Đinh Nhật Uy. Bởi, nếu vậy thì rồi, 32 triệu người sử dung internet [nếu đúng như người ta loan báo để đánh bóng thành tích] đều có nguy cơ bị Điều 258 của Bộ Luật Hình sự cho vào tù bất cứ lúc nào. Nhưng không thể không dằn mặt và răn đe một trào lưu đang như những dòng suối nhỏ đổ ra sông lớn mà sức cuộn chảy của nó không một bờ bao, một con đê nào ngăn chặn nổi. Thêm vào đó, dòng sông đang xuôi về biển cả, sóng đại dương đang tiếp sức cho tốc độ bứt phá của dòng sông cuộc sống. Dư luận quốc tế đang là một sức ép hiện thực mà nhà nước toàn trị này phải tính toán. 

Đó là sức cộng hưởng của phong trào dân chủ trong nước từ bản Tuyên bố thực thi quyền chính trị và dân sự của giới trí thức nhân sĩ trong và ngoài nước, kết hợp với những sáng kiến của giới trẻ trong đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền cùng với những bàn chân nổi giận của người nông dân mất đất rầm rập xuống đường, tạo thành một nội lực to lớn để được tiếp sức của cộng đồng quốc tế, bao gồm chính giới có mối quan hệ nhà nước với nước ta, giới đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền thế giới và mạng lưới truyền thông quốc tế thường xuyên theo sát diễn biến tình hình ở Việt Nam.

Bước đi oái oăm của lịch sử cũng đang thể hiện ở thế giằng co chưa ngã ngủ từ đối nội cho đến đối ngoại mà cái sức cộng hưởng nói trên đang in đậm dấu ấn. Dấu ấn ấy hiện rõ trong ứng xử của người cầm quyền trong thế "tiến thoái lưỡng nan", "đi thì cũng dở, ở không xong" trước bao áp lực vì đang "nhả chẳng ra cho, nuốt chẳng vào" những lợi ích phe nhóm khi mà những lợi ích ấy lại được đặt lên trên lợi ích của tổ quốc, lên trước lợi ích và khát vọng của toàn dân. Từ một sự kiện vụ án Đinh Nhật Uy, khởi đầu cho việc xử lý mạng lưới internet đầy bất trắc đối với một chế độ toàn trị trước một xã hội đang tỉnh thức, gây nên sự ngột ngạt trong đời sống của mọi tầng lớp nhân dân đang đối diện với bao khó khăn về kinh tế và an toàn xã hội.

Không hiểu điều này có nằm trong cái mà ông Tổng bí thư nọ cảm thấy "ngột ngạt” khi ông nói với cử tri quận Ba Đình ngày 27.9.2013 không, chứ ngay từ đầu thế kỷ XX thì các cụ ta trong phong trào "Duy tân" đã thốt lên rằng: "Văn minh là thế giới nào. Mà ta chìm đắm trong hào dã man"! Xin nhớ cho là tòa án của chế độ thực dân đã tửng xử vụ án "Đồng Nọc Nạn", rồi chính quyền Sài Gòn trước 75 đã không thể không nể trọng các luật sư biện hộ và đấu tranh cho công lý. Và hồi ấy, "ma tà", "lính kín", "sen đầm" chưa phải tổ chức một bộ máy côn đồ du thủ du thực đông đến vậy để huy động vào việc đàn áp dân chúng. Bọn côn đồ này đánh người nhân danh công an, trước mắt công an, được công an khuyến khích, cổ vũ mà chuyện đánh đập dã man gây thương tích công dân Lưu Trọng Kiệt hay chuyện hành hung bloger Lâm Bùi trước cửa Tòa án Long An hôm rồi chỉ là một trong vô vàn những ví dụ! 

Nhưng bạo lực chỉ có thể là cách giải khát bằng thuốc độc. Bạo lực không khuất phục được tuổi trẻ, ngược lại, đang đổ thêm dầu vào lửa, ngọn lửa của sự phẫn nộ và ý chí đấu tranh. Cũng chính vì vậy, sức lan tỏa của bài hát "Dậy mà đi" các bạn trẻ đang hát kia đang thổi một làn sinh khí vào đời sống ngột ngạt mà xã hội đang phải chịu đựng. Xin được phép trích ra đây những lời gan ruột của bloger Lâm Bùi, người bị hành hung để chứng minh cho điều ấy:
"Cái đau này không phải vì là thể xác, mà là ở tâm hồn... đau vì nhà cầm quyền thay vì lắng nghe dân, tôn trọng dân, thì luôn dùng quyền lực, dùng bạo quyền để trấn áp người dân. Coi lợi ích đảng phái phe nhóm lớn hơn Dân Tộc, lớn hơn Tổ Quốc... và coi dân là kẻ thù, là thù địch. Sau phiên tòa, dù rằng Đinh Nhật Uy được hưởng án treo, được phóng thích tại tòa, nhưng đó vẫn là một bản án, một bản án bất công và Uy đã phải bị giam cầm oan uổng hơn 4 tháng trời.
Đảng vẫn muốn cai trị bằng quyền lực để phục vụ cho mình, bằng sự dối trá để đầu độc người dân, bằng những điều luật mà mỗi người dân, mỗi người như chúng ta đây, khi muốn thể hiện cái Quyền Con Người chính đáng của mình... thì bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành những Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Trần Vũ Anh Bình, Việt Khang, Nhật Uy, Nguyên Kha... và nhiều... tại sao? Hãy lên tiếng, và hãy cứ lên tiếng, vì chúng ta là con người... chúng ta không phải là những con cừu.
Chúng ta không kêu gọi lật đổ hay tranh giành, chúng ta chỉ muốn họ thay đổi, hãy xóa bỏ những điều luật không đúng, sai trái, hãy tôn trọng quyền con người của mỗi người công dân... hãy thay đổi cả chúng ta và cả họ... hãy thay đổi... thay đổi vì Việt Nam cho Việt Nam."
Đẹp biết bao, cao cả biết bao ý chí của tuổi trẻ, nguồn sinh lực bất tận của dân tộc! Chính họ chứ không phải ai khác đang thúc đẩy lịch sử đi tới, đang góp phần viết nên những trang sử mới của cuộc đấu tranh cho dân chủ và tự do, tiếp tục sứ mệnh của cha anh từng đổ máu cho sự nghiệp giành độc lập của tổ quốc. Vì, họ hiểu rằng, độc lập mà không có dân chủ và tự do, không có nhân quyền thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì cả.

T.L 
Nguồn:Blog Quê Choa


-->đọc tiếp...

Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2013

Thư giãn cuối tuần: CHỬI TỚ NGU MÀ CỨ UỐNG SỮA TỚ ĐỂ ĐƯỢC THÔNG MINH

 
_________________________

Nguyễn Thông 
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm

Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Đã có bao giờ bác sĩ ném xác xuống sông?
-Chưa đâu, bởi đây sẽ không phải lần duy nhất
Khi y đức chỉ còn là cục... đất
Khi chị Tiến còn ngồi kia môi đỏ như son
Khi tính mạng con người chả nghĩa lý gì hơn 
Thì sông Hồng ta đây vẫn còn thành nghĩa địa... 
Rao bán hàng quý hiếm. Gửi các nhà ngoại cảm VN
Tôi hiện có rất nhiều loại nút áo cũ (= xưa, và đã qua sử dụng), do mẹ tôi ngày xưa hà tiện nên trước khi bỏ quần áo cũ làm giẻ rách thì đã cắt nút lại để dành, bỏ một vào một cái keo, được khá nhiều loại.
Lâu nay không biết làm gì, bỏ đi thì tiếc công của mẹ tôi đã cất giữ bao lâu nay, mà sử dụng thì không còn cần đến nữa. 
Nay đọc báo về mấy vụ lừa đảo của các nhà ngoại cảm, tôi bỗng nhận ra: những cái nút này có thể giúp các nhà ngoại cảm biến xương thú vật thành ra xương liệt sĩ một cách dễ dàng. Thì đào lên thấy có xương, lại có thêm vài hạt nút quần áo quanh đấy, nút của thời thập niên 60, 70 đánh Mỹ đang khốc liệt, thì ai có người thân hy sinh mà lại chẳng tin?
Đúng, hàng quý hiếm, bán giá rẻ, mua ngay kẻo hết! 

Vũ Đảm
Diêm vương bổ nhiệm nhân sự mới...
- Thưa Diêm Vương, ông vừa ra quyết định bổ nhiệm ông bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường, Giám đốc Trung tâm thẩm mỹ Cát Tường làm Giám đốc Trung tâm thẩm mỹ Đao Phủ ạ?
- Đúng thế?
- Tôi e rằng âm phủ đã quyết định nhưng dương thế thì không chịu bàn giao nhân sự đâu ạ! 
- Sao? Làm chết người rồi đem xác vứt xuống sông Hồng phi tang, man rợ thế mà không tử hình à?
- Dạ hiện nay trên trần gian đang có hội chứng cứ kẻ nào giết người man rợ là con nhà có máu mặt hay lắm tiền thì đang thông minh biến thành tâm thần ạ. Mà tâm thần thì giết người chứ giết Dương Vương cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, cùng lắm cho vào nhà thương điên vài tháng điều trị khỏi bệnh lại ra ạ!
Lão Phích 
 
Đào Tuấn FB: 
Hôm nay là một ngày đáng nhớ của nền báo chí xứ VN. Tờ nhật báo lớn nhất sau rất nhiều vòng vèo, có một câu rất hay “Rất đông phóng viên vây lấy Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến. Tất cả chỉ nhận được những cái lắc đầu và xua tay từ chối của người lẽ ra phải chủ động lên tiếng với báo chí”. Và đặt ra một câu hỏi, đồng thời trong đó đã chứa đựng câu trả lời “Bà bộ trưởng liệu có hiểu rằng sự chấn động của vụ “phi tang xác bệnh nhân” không thuộc dạng muốn hay không muốn, thích hay không thích trả lời cũng được? Nó ở tầm mức trói buộc trách nhiệm “phải trả lời” của người đứng đầu ngành y tế. Trách nhiệm chính trị của cá nhân bộ trưởng ở đâu?”.
Tổng biên tập Petrotime Nguyễn Như Phong, dưới bút danh Như Thổ có bài xã luận với cái tít lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử báo chí cách mạng “Bộ trưởng Y tế nên từ chức”. 
 
 Lê Diễn Đức 
Khốn khổ, khốn nạn vì miếng ăn! Mà toàn thanh niên. 
Hàng nghìn người đã chen lấn tại một cửa hàng sushi mới khai trương trên phố Đoàn Trần Nghiệp (Hà Nội) để ăn buffet miễn phí, hôm 25/10. 
 
Với số lượng phần ăn giới hạn (sáng và chiều là 180, tối là 280 người) mà lượng khách đến cả nghìn người khiến cho cửa hàng rơi vào tình trạng quá tải. Quản lý tại cửa hàng cho biết, mặc dù cửa hàng đã chuẩn bị dư ra đến cả nghìn suất ăn, trưa phải đi mua thêm nguyên liệu, song cũng chỉ “cầm cự” được đến chiều, buổi tối thì hết đồ ăn hoàn toàn. 
______________________________
 
Cử chỉ kỳ quặc của bác "tự quản" trước cửa đồn công an phường T.K (Hà Nội) tối 25.10.2013
(FB Le Thi Phuong Anh)
 _______________
Chuyện sư: 
Sư trụ trì ở... biệt thự! 
Thứ Sáu, 25/10/2013 21:50 
Gần đây, người dân tỉnh Vĩnh Long bàn tán xôn xao về việc sư trụ trì Bồ Đề Cổ Tự (xã Mỹ Hòa, huyện Bình Minh) mua đất xây biệt thự trị giá cả chục tỉ đồng để ở sát cạnh chùa. 

Trong khi ngôi biệt thự của sư trụ trì Bồ Đề Cổ Tự xây dựng hết sức sang trọng thì ngôi chùa này - nơi đặt bia tưởng niệm các nạn nhân vụ sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ - lại xây dựng ì ạch mấy năm nay chưa xong. 

Để chùa hoang vắng 

Ngày 17-10, đến viếng Bồ Đề Cổ Tự, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên vì ngôi chùa này như bị bỏ hoang. Sân chùa toàn cát và đá dăm lởm chởm. Phần chánh điện chỉ khoảng 1/4 đã được sơn vẽ, phần còn lại bị bỏ dang dở. Dãy nhà ở bên trái chánh điện trông thê thảm hơn với những bức tường chưa được tô xi-măng, rêu bám dày. Tìm khắp chùa, chúng tôi không gặp bất kỳ ai. Chỉ đến khi chúng tôi loay hoay tìm nhang để thắp trước bia tưởng niệm các nạn nhân vụ sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ thì một phụ nữ bất ngờ xuất hiện.

Người phụ nữ này tự xưng là cô Tư, một phật tử. Nghe chúng tôi thắc mắc về sự hoang vắng của ngôi chùa, cô Tư cười xòa, lý giải: “Không phải bỏ hoang đâu! Sư ở nhà của sư bên kia kìa!”. Cô Tư chỉ tay về phía sau chùa, nơi thấp thoáng nóc một ngôi nhà trông rất đẹp. Cô Tư còn giải thích thêm hằng ngày, chỉ có cô và một phật tử nữa qua lại để trông coi chùa, còn sư trụ trì thì chỉ qua chùa khi nào cần thiết, thời gian còn lại sư ở nhà của sư (!). 

Có việc cần xử lý mới qua chùa 

Nhà của sư là một công trình rất lớn và đẹp. Phần tường rào xây kín cao hơn 2 m. Đường dẫn vào cửa chính của công trình này là các bậc đá được xếp uốn lượn trên mặt nước. Nội thất của công trình rất sang trọng với nhiều đồ gỗ, gạch lát sàn, ốp tường cao cấp.

Ngôi biệt thự được sử dụng làm tịnh thất của nhà sư trụ trì chùa Bồ Đề Cổ Tự

Đón tiếp chúng tôi ở ngưỡng cửa là một vị sư còn khá trẻ, xưng là thầy Thích Phước Tấn, trụ trì Bồ Đề Cổ Tự. Lúc đầu, thầy Tấn mặc quần soóc tiếp khách. Sau đó, thấy chúng tôi tỏ vẻ ái ngại, thầy mới đi thay quần dài. Khi nghe chúng tôi giới thiệu là những người làm ăn từ TP HCM về Vĩnh Long chơi, đang muốn cúng dường cho chùa, thầy Tấn rất hồ hởi. Thầy cho số điện thoại liên lạc và bảo nếu không chuyển tiền trực tiếp được thì thầy cho số tài khoản ngân hàng. Chúng tôi thắc mắc chùa cần bao nhiêu tiền nữa để hoàn tất việc xây dựng, thầy Tấn lắc đầu bảo: “Có bao nhiêu tiền thì xây bấy nhiêu chứ không ước tính được”.

Với câu hỏi việc xây mới chùa từ khoảng năm 2007 đến nay đã tốn tổng cộng bao nhiêu tiền, thầy Tấn lại tiếp tục lắc đầu, bảo cũng chẳng nhớ nổi. Về lý do chùa xây mãi chưa xong, thầy Tấn luôn miệng than là do thiếu tiền. Dù vậy, thầy Tấn thừa nhận vẫn đang cho thợ thi công để hoàn thiện tịnh thất, nơi ở của thầy hiện giờ. Khi chúng tôi hỏi thường ngày thầy có ở bên chùa không thì thầy Tấn cười bảo: “Hên xui! Khi có việc gì cần xử lý bên chùa thì thầy mới qua, thời gian còn lại thì thầy ở trong tịnh thất”.

Điều đáng nói là nhiều người dân, trong đó có những người là người thân của các nạn nhân vụ sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ, rất bức xúc về chuyện này. Họ cho rằng thầy Tấn cố ý xây Bồ Đề Cổ Tự ì ạch nhằm xin thêm tiền của những người đến viếng các “ông Cầu” (cách người dân gọi những nạn nhân trong vụ sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ). Số tiền này không dùng để hoàn thiện ngôi chùa mà dùng cho mục đích riêng của thầy Tấn, trong đó có việc xây ngôi biệt thự.

Và một vị sư nữa hát nhạc chế "Đời tôi đi tu'....
  
-->đọc tiếp...

Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

CÙNG XEM LẠI GIÂY PHÚT HẤP HỐI CỦA HÀ TÂY YÊU DẤU 5 NĂM TRƯỚC


Có nhớ Xứ Đoài mây trắng lắm?
Tặng hai anh PBC và NXD 
cùng những người “nhớ” Hà Tây

Mai anh thành người Hà Nội
Xứ Đoài mây trắng còn bay?
Mai anh thành người Hà Nội
Có còn nhớ... mắt Sơn Tây?

Thạch Thất, Ba Vì, Phúc Thọ
Phú Xuyên, Chương Mỹ, Ứng Hòa
Thường Tín, Mỹ Đức, Thanh Oai
Hoài Đức, Quốc Oai, Đan Phượng...

Tất cả vẫn đều là huyện
Nhưng không phải tỉnh Hà Tây!
Tất cả vẫn còn nguyên vẹn
Mà sao thương đến lắt lay!...

Mai anh thành người Hà Nội
Có đi đâu, vẫn quê mình
Mà sao thấy lòng tồi tội
Rứt ray như kẻ phụ tình!

Đá ong khô buồn rớm lệ
Mây Đoài trắng lắm..., đành quên
Sài Sơn... lúa vàng..., thôi kệ
Mặc đồng Bương Cấn ai lên!

Mai anh thành người Hà Nội
Uống cùng anh cạn đêm nay
Ước chi hóa thành chén rỗng
Lòng đau - anh cứ rót đầy!

Đ.H.T
Đà Nẵng, chiều 31.7.2008

****
Cùng xem lại chương trình Thời sự của Đài Truyền hình Việt Nam 
về giây phút lâm chung của tỉnh Hà Tây

-->đọc tiếp...

Thứ Tư, 3 tháng 7, 2013

3.7.2011: MỘT CẢNH TƯỢNG CHƯA TỪNG THẤY BAO GIỜ!


GIẢI CỨU CHO MỘT NGƯỜI YÊU NƯỚC BỊ BẮT GIAM TẠI TRỤ SỞ CÔNG AN PHƯỜNG TRÀNG TIỀN, 
QUẬN HOÀN KIẾM, THỦ ĐÔ HÀ NỘI, NƯỚC VIỆT NAM

Người bị bắt giữ tại đồn công an là Nguyễn Tiến Nam (Binh Nhì)

Trời ơi! Tôi không thể kìm được nước mắt khi xem đoạn video này! Lúc này, một mình trong phòng làm việc giữa trưa, nước mắt tôi đã chảy ròng! Thương quá, Việt Nam ơi! 

Lần sau, nếu có biểu tình, tôi không tường thuật chi hết! Không ngồi ở một vài chỗ nữa! Tôi phải đi cùng mọi người, từng bước chân, từng bước chân...để trải nghiệm cho hết, cho đến tận cùng của sự kiện. Lúc đó, hãy thông cảm và tha thứ, nếu tôi không làm bản tin trực tiếp nữa!

Thưa Đảng, 'Đảng là đạo đức, là văn minh" và thưa Chính phủ, "Chính phủ do dân, vì dân" để công an "vì nước quên thân, vì dân phục vụ" mà làm ra như thế này, tổn thương đồng bào mình quá! 

Đăng bài lúc 13:39 ngày 4 tháng 7 năm 2011
-->đọc tiếp...

Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2013

ÔNG NGUYỄN ĐÌNH LỘC MỘT LẦN NỮA KHẲNG ĐỊNH CHỮ KÝ TẠI "KIẾN NGHỊ 72"

Trong chương trình Thời Sự 19h của VTV1 hôm nay (22.3.2013), Tiến sĩ Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư Pháp một lần nữa khẳng định chữ ký của mình tại Kiến Nghị Sửa đổi Hiến pháp năm 1992, do các nhân sĩ trí thức khởi xướng, được công bố trên trang BauxiteVN ngày 22 tháng 1 năm 2013:

KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (dưới đây gọi tắt là Dự thảo), chúng tôi, những người Việt Nam ký tên dưới đây, xin trình bày với Quốc hội và Uỷ ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 một số kiến nghị, đồng thời mong mỏi toàn thể đồng bào trong và ngoài nước thẳng thắn nói lên ý kiến để nhân dân ta có một Hiến pháp bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ và sự phát triển bền vững của đất nước, mang lại tự do hạnh phúc cho các thế hệ hiện tại và tương lai.
Hiến pháp của một quốc gia do dân làm chủ bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân và được hình thành từ sự thỏa thuận giữa các thành phần đa dạng trong xã hội. Dự thảo chưa thấu suốt bản chất của một hiến pháp dân chủ, chưa thể hiện sự tin cậy, tín nhiệm của nhân dân với chính quyền theo tinh thần thỏa thuận kiến tạo một môi trường có sự kiểm soát bên trong và bên ngoài đối với quyền lực. Kiểm soát bên trong giữa các nhánh quyền lực nhà nước bằng các cơ chế đối trọng kiềm chế lẫn nhau, các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp không thể vượt quá giới hạn được ấn định. Kiểm soát từ bên ngoài đối với công quyền được thực hiện bởi nhân dân với vai trò quan trọng của xã hội dân sự mà tiền đề là các quyền tự do về ngôn luận, báo chí, lập hội, hội họp, biểu tình,...
Hiến pháp phải mang tính chính đáng được đo bằng nhiều tiêu chí. Thứ nhất, hiến pháp phải có mục tiêu bảo vệ độc lập chủ quyền, kiến tạo tự do, dân chủ, công bằng, hạnh phúc; đồng thời đoàn kết toàn dân, loại bỏ mọi sự chia rẽ hay áp bức, hướng đến sự phát triển bền vững của dân tộc. Thứ hai, hiến pháp phải thể hiện ý chí chung của nhân dân, thể hiện sự đồng thuận của nhân dân để lập ra các cơ quan nhà nước. Thứ ba, hiến pháp phải được xây dựng theo các nguyên tắc pháp luật phổ biến của thế giới văn minh, phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Theo tinh thần đó, trước mắt chúng tôi kiến nghị 7 điểm như sau.
Kiến nghị thứ nhất về Lời nói đầu và về Chương I
Lời nói đầu của Dự thảo không làm rõ mục tiêu của hiến pháp và chủ thể quy định hiến pháp. Hiến pháp cần xác định mục tiêu trước hết là để bảo đảm sự an toàn, tự do và hạnh phúc của mọi người dân. Một bản hiến pháp tốt phải hạn chế sự lạm quyền của những người cầm quyền, tạo dựng khuôn khổ cho các sinh hoạt chính trị, kinh tế và văn hoá diễn ra một cách an bình và hiệu quả. Hiến pháp cũng phải hướng đến hạnh phúc của các thế hệ tương lai.
Quyền lập hiến (xây dựng, ban hành hay sửa đổi hiến pháp) là quyền sinh ra các quyền khác (lập pháp, hành pháp và tư pháp) phải thuộc về toàn dân, chứ không thể thuộc về bất kỳ một tổ chức hay cơ quan nào, kể cả Quốc hội. Lời nói đầu cần xác định rõ chủ thể quyết định, ban hành hiến pháp là nhân dân.
Lời nói đầu không phải là chỗ để tuyên dương công trạng của bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào.
Lời nói đầu của Dự thảo không đáp ứng được các yêu cầu trên nên chúng tôi đề nghị bỏ và thay bằng:
Kế tiếp nền văn hiến và truyền thống bất khuất của các thế hệ tiền nhân đã dựng xây và bảo vệ đất nước, đã đấu tranh vì độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân,  vì một xã hội dân chủ, công bằng và pháp quyền, vì tự do và hạnh phúc của các thế hệ hiện tại và tương lai, chúng tôi, nhân dân Việt Nam, quyết định xây dựng và ban hành bản Hiến pháp này.

Trong Chương I, cần nhấn mạnh nguyên tắc chủ quyền nhân dân đòi hỏi phải tôn trọng ý của dân tộc. Nếu hiến pháp thực sự do nhân dân quyết định thì việc định trước vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội thuộc về một tổ chức chính trị hay một tầng lớp là trái với quyền làm chủ của nhân dân, quyền con người, quyền công dân và ngược với bản chất của một nhà nước pháp quyền. 

Chủ thể nào lãnh đạo xã hội sẽ do nhân dân bầu chọn ra trong các cuộc bầu cử tự do, dân chủ, định kỳ. Một chính đảng thực sự có chính nghĩa, phục vụ lợi ích của nhân dân sẽ không lo bị thất bại trong các cuộc bầu cử như vậy. Hiến pháp của Liên Xô năm 1977 quy định ở Điều 6 vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước và xã hội đã không tránh được sự sụp đổ của chế độ Xô-viết khi không còn lòng tin của dân.

Việc đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, kể cả các đảng viên trung thực của Đảng Cộng sản Việt Nam trước bối cảnh hiện nay của đất nước.

Ý kiến nêu trên được tiếp thu sẽ tạo cơ hội cho Đảng Cộng sản Việt Nam lấy lại niềm tin đã từng có trong dân để thực sự trở thành lực lượng lãnh đạo chính trị được xã hội chấp nhận.

Kiến nghị thứ hai về quyền con người

Một mục đích của việc thành lập Nhà nước là để bảo vệ các quyền đương nhiên của con người. 

Dự thảo đã điều chỉnh thứ tự để đề cao các quyền này so với Hiến pháp hiện hành, nhưng lại có nhiều điểm chưa phù hợp với các quy định và chuẩn mực quốc tế về quyền con người; như các quy định trong Dự thảo về giới hạn quyền (Điều 15), “không lợi dụng quyền con người, quyền công dân” (Điều 16), “quyền không tách rời nghĩa vụ (Điều 20). Dự thảo còn quy định quá nhiều nghĩa vụ một cách tùy tiện (Điều 41, Điều 42, Điều 49,…). Việc nhấn mạnh trong Dự thảo các lý do về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, ổn định chính trị, việc đưa cụm từ “theo quy định của pháp luật”, ... nhằm hạn chế những quyền đó sẽ mở đường cho việc nhân danh hiến pháp để vi phạm quyền con người, đàn áp các công dân thực thi quyền tự do như đã diễn ra trong thực tế những năm qua ở nước ta.

Chúng tôi yêu cầu sửa Dự thảo theo đúng tinh thần của Tuyên ngôn về Quyền Con người năm 1948 và các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

Nếu các quyền này được ghi trong Hiến pháp mà không được thực thi nghiêm túc như hiện nay, thì việc quy định các quyền ấy cũng trở nên vô nghĩa. Vì vậy chúng tôi yêu cầu Hiến pháp quy định thành lập một Ủy ban Quốc gia về Quyền Con người hoạt động độc lập.

Kiến nghị thứ ba về sở hữu đất đai

Chế độ sở hữu tư nhân về đất đai đã tồn tại từ lâu trên đất nước ta. Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân kể từ Hiến pháp Việt Nam 1980 là sự sao chép Hiến pháp Liên Xô, một điều hoàn toàn xa lạ với nhân dân Việt Nam và đã gây ra rất nhiều bất ổn xã hội. Điều 57 Dự thảo tiếp tục khẳng định đất đai “thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu” là duy trì quy định sai trái, bỏ qua những vấn đề ngày càng trầm trọng do quy định này gây ra mà hàng triệu khiếu nại, khiếu kiện về đất đai trong những năm qua chỉ là phần nổi của tảng băng chìm hết sức nguy hiểm.

Không thừa nhận sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng về đất đai cùng tồn tại với sở hữu nhà nước là tước đoạt một quyền tài sản quan trọng bậc nhất của người dân. Đánh đồng sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân về đất đai là tạo điều kiện cho quan chức các cấp chính quyền tham nhũng, lộng quyền, bắt tay với nhiều tư nhân, doanh nghiệp cùng trục lợi, gây thiệt hại cho nhân dân, đặc biệt là nông dân. 

Dự thảo còn “hợp hiến hóa” việc thu hồi đất, trong đó lại mở rộng phạm vi áp dụng cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội; đây là một sự thụt lùi so với Hiến pháp 1992 và có thể gây bùng nổ bất ổn xã hội. 

Vì thế chúng tôi kiến nghị sửa đổi Điều 57 của Dự thảo, trở lại như Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Có thể quy định như sau: “Sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng và nhà nước về đất đai được tôn trọng. Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ và thống nhất quản lý đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản và các tài nguyên, nguồn lợi khác ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư.”

Thay thế quy định thu hồi đất bằng trưng mua đất và không áp dụng cho các dự án phát triển kinh tế-xã hội như nêu trong Điều 58 của Dự thảo.

Kiến nghị thứ tư về tổ chức Nhà nước

Tổ chức bộ máy Nhà nước phải phân biệt rạch ròi các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như các cơ quan hiến định khác. Tất cả các cơ quan nhà nước phải tuân thủ Hiến pháp và luật. Các nhánh quyền lực ràng buộc, chế ước lẫn nhau nhưng không thể bị chi phối bởi bất kỳ một tổ chức hay cá nhân duy nhất nào, nghiêm cấm mọi sự độc quyền quyền lực. Đặc biệt, hệ thống tư pháp phải được bảo đảm trên thực tế quyền xét xử độc lập, chỉ dựa vào Hiến pháp và luật. Tòa án Hiến pháp phải được thành lập, có chức năng phán quyết, chứ không phải là tư vấn, kiến nghị như chức năng của Hội đồng Hiến pháp được quy định trong Dự thảo.

Kiến nghị thứ năm về lực lượng vũ trang

Hiến pháp đặt lợi ích của toàn dân lên trên lợi ích của bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào. Mọi hoạt động của các lực lượng vũ trang chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân. Lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào, như quy định tại Điều 70 của Dự thảo. Chúng tôi yêu cầu bỏ quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam.

Kiến nghị thứ sáu về trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp

Quyền lập hiến là quyền của toàn dân, phải phân biệt với quyền lập pháp của Quốc hội. Vì vậy phải có trưng cầu dân ý để phúc quyết Hiến pháp. Chúng tôi đề xuất quy định trong Hiến pháp: “Bảo đảm quyền phúc quyết của nhân dân đối với Hiến pháp, thông qua trưng cầu dân ý được tổ chức thật sự minh bạch và dân chủ với sự giám sát của người dân và báo giới.

Kiến nghị thứ bảy về thời hạn góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp

Việc lấy ý kiến đóng góp của toàn dân về sửa đổi Hiến pháp là một việc hệ trọng đến vận mệnh quốc gia, phải được tiến hành một cách nghiêm chỉnh, không thể tắc trách, lấy lệ. Vì vậy, thời hạn lấy ý kiến của nhân dân chỉ trong vòng ba tháng là quá ngắn, dễ dẫn đến tình trạng làm một cách hình thức cho qua chuyện. Vì vậy chúng tôi kiến nghị gia hạn thời gian lấy ý kiến của nhân dân đến hết năm 2013, đồng thời khuyến khích đề xuất các dự thảo khác để Quốc hội, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cùng toàn thể đồng bào tham khảo, so sánh, thảo luận nhằm xây dựng một bản hiến pháp phù hợp nhất cho quốc gia.

Sửa Hiến pháp theo tinh thần của các kiến nghị nêu trên sẽ phát huy dân chủ và hoà hợp dân tộc – những đòi hỏi hết sức bức xúc của nhân dân trong giai đoạn trước mắt, cũng như cho sự phát triển bền vững lâu dài của đất nước.

Chúng tôi tha thiết mong mỏi đồng bào trong và ngoài nước hưởng ứng bản Kiến nghị này bằng cách đăng ký tham gia ký tên theo địa chỉ thư điện tử:
Hà Nội, ngày 19 tháng 1 năm 2013 
DANH SÁCH NGƯỜI KÝ KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992
  1. Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
  2. Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu, Hà Nội
  3. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức yêu nước TP Hồ Chí Minh, TP HCM
  4. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, TP HCM
  5. Nguyễn Huệ Chi, GS, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội
  6. Tống Văn Công, nguyên Tổng biên tập báo Lao động, TP HCM
  7. Phạm Vĩnh Cư, nhà nghiên cứu, Hà Nội
  8. Nguyễn Xuân Diện, TS, Hà Nội
  9. Lê Đăng Doanh, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
  10. Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM
  11. Nguyễn Văn Dũng, nhà văn, võ sư, Huế
  12. Hồ Ngọc Đại, GS TS, nhà giáo, Hà Nội
  13. Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, đại biểu Hội đồng Nhân dân TP Hồ Chí Minh khóa 4, 5, TP HCM
  14. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
  15. Lê Hiền Đức, Giải thưởng Liêm chính 2007, Tổ chức Minh bạch Quốc tế, Hà Nội
  16. Phan Hồng Giang, TSKH, Hà Nội
  17. Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Phó Giám đốc Tổng công ty Du lịch Thành phố (Saigontourist), TP HCM
  18. Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
  19. Nguyễn Gia Hảo, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, Hà Nội
  20. Đặng Thị Hảo, TS, Hà Nội
  21. Võ Thị Hảo, nhà văn, Hà Nội
  22. Phạm Duy Hiển, GS, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
  23. Hồ Hiếu, cựu tù Côn Đảo, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Mặt trận, Thành uỷ TP Hồ Chí Minh, TP HCM
  24. Nguyễn Xuân Hoa, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa Thừa Thiên - Huế, Chủ tịch Hội Văn nghệ Thừa Thiên - Huế
  25. Nguyễn Văn Hồng (tức Cung Văn), nguyên Tổng Thư ký Ban chấp hành Sinh viên đoàn Đại học Văn khoa Sài Gòn 1964-1965, Đà Nẵng
  26. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
  27. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam, Đà Nẵng
  28. Trần Ngọc Kha, nhà báo, Hà Nội
  29. Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM
  30. Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, nguyên Phó Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
  31. Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới, TP HCM
  32. Hồ Uy Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội
  33. Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Hà Nội
  34. Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Ban Dân vận Trung ương, Hà Nội
  35. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, Đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
  36. Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
  37. Phạm Gia Minh, TS, Hà Nội
  38. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
  39. Nguyên Ngọc, nhà văn, nguyên thành viên Viện IDS, Hội An
  40. Hạ Đình Nguyên, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành động thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
  41. Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
  42. Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn, Hà Nội
  43. Phạm Đức Nguyên, PGS TS, giảng viên cao cấp Đại học, Hà Nội
  44. Hồ Ngọc Nhuận, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc chính trị nhật báo Tin sáng, TP HCM
  45. Nguyễn Hữu Châu Phan, nhà nghiên cứu, Huế
  46. Hoàng Xuân Phú, GS Viện Toán học, Hà Nội
  47. Trần Việt Phương, nguyên trợ lý Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
  48. Nguyễn Đăng Quang, nguyên Đại tá Công an, Hà Nội
  49. Đào Xuân Sâm, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
  50. Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM
  51. Trần Đình Sử, GS TS, Hà Nội
  52. Nguyễn Trọng Tạo, nhà văn, Hà Nội
  53. Lê Văn Tâm, TS, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam tại Nhật Bản, Nhật Bản
  54. Trần Công Thạch, hưu trí, TP HCM
  55. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
  56. Trần Thị Băng Thanh, PGS TS, Hà Nội
  57. Lê Quốc Thăng, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
  58. Đào Tiến Thi, thạc sĩ, Hà Nội
  59. Nguyễn Minh Thuyết, GS TS, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, Hà Nội
  60. Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội
  61. Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM
  62. Nguyễn Trung, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
  63. Vũ Quốc Tuấn, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
  64. Hoàng Tụy, GS, Viện Toán học, nguyên Chủ tịch Viện IDS, Hà Nội
  65. Lưu Trọng Văn, nhà báo, TP HCM
  66. Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
  67. Nguyễn Viện, nhà văn, TP HCM
  68. Nguyễn Hữu Vinh, doanh nhân, Hà Nội
  69. Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế
  70. Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, Huế
  71. Nguyễn Đông Yên, GS TS, Viện Toán học, Hà Nội
  72. Nguyễn Phú Yên, nhạc sĩ, TP HCM.

    .
-->đọc tiếp...