Blogger Widgets

Thứ Hai, 20 tháng 2, 2012

TS.TRẦN TRỌNG DƯƠNG: CHỮ NÔM HAY CHỮ QUỐC NGỮ MỚI LÀ THUẦN VIỆT?

Chữ Nôm hay chữ Quốc ngữ mới là thuần Việt?

TS  Trần Trọng Dương  
-  Bài viết riêng cho Nguyễn Xuân Diện blog 

Bài viết “Chữ Nôm hay chữ quốc ngữ mới là thuần Việt?” của tác giả Thu Thảo đăng trên http://vietnamnet.vn đã thu hút tôi ngay từ cái tên. Bởi lẽ, bài viết đặt vấn đề cốt tử của bản sắc văn hóa Việt Nam qua trường hợp văn tự. Sapo của bài viết trích ý kiến của nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân, như sau: “Không thể nói chữ Nôm thuần Việt được, vì chữ Nôm do người Việt vay mượn từ tiếng Hán nên chịu nhiều ảnh hưởng từ nền văn hóa Trung Hoa. Chữ quốc ngữ mới là ngôn ngữ của người Việt”.

Câu sapo của bài báo khiến chúng tôi giật mình. Bởi lẽ nội dung của câu ấy cho thấy sự mù mờ về mặt khái niệm: văn tự ngôn ngữ. Tại sao tôi lại nói như vậy?

Câu nói “Chữ quốc ngữ mới là ngôn ngữ của người Việt” là câu sơ suất nhất. Bởi lẽ “chữ viết” không thể là “ngôn ngữ” được, chữ viết chỉ là cái vỏ ghi âm của ngôn ngữ mà thôi. Như tiếng Việt có lịch sử 12 thế kỷ. Từ góc nhìn lịch đại, tiếng Việt có hai hệ thống ghi âm[1] khác nhau. Thứ nhất là chữ Nôm, thứ hai là chữ Quốc ngữ. Nói một cách dễ hiểu hơn, chữ Nôm và chữ quốc ngữ là hai hệ thống chữ viết cho cùng một ngôn ngữ: Tiếng Việt.

Còn muốn xác định cái nào là THUẦN VIỆT ở góc độ văn tự học và văn hóa học, thì chúng ta phải có một hệ tiêu chí. Chứ không thể dùng mỗi tiêu chí “mượn Hán” để phủ định cái này hay khẳng định cái kia. Những công việc ấy phải hết sức bình tĩnh và khách quan. Từ góc nhìn DI SẢN, chúng ta sẽ xem xét, so sánh chữ Nôm với chữ Quốc ngữ cổ từ mốc thời gian từ 1945 trở về trước. Chúng tôi xin đưa ra các tiêu chí sau.

Thứ nhất là về chủ thể sử dụng. Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ đều có chủ thể sử dụng là người Việt. Thế nhưng, nếu như chữ Nôm được phần lớn cộng đồng cư dân Việt dùng làm công cụ ghi chép từ giữa thế kỷ XX trở về trước; thì chữ quốc ngữ cổ chỉ hạn hẹp trong cộng đồng cư dân theo Thiên Chúa giáo, phải đến đầu thế kỷ XX, chữ quốc ngữ mới dần lấn lướt, và chính thức “độc dụng” từ  năm 1945 đến nay (xem bài Ai bức tử chữ Hán chữ Nôm? của Vũ Thế Khôi http://vanhoanghean.com.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van-hoa/213-ai-qbc-tq-ch-han-nom.html).

Thứ hai là về chủ thể sáng tạo. Chữ Nôm là sản phẩm chữ viết duy nhất do chính người Việt sáng tạo trên cơ sở vay mượn tự hình chữ Hán để ghi lại tiếng Việt. Chữ quốc ngữ là sản phẩm do người phương Tây sáng tạo trên cơ sở vay mượn chữ cái La Tinh để ghi lại tiếng Việt. Cũng cần nhắc lại ở đây rằng vay mượn văn tự là hiện tượng phổ biến của mọi nền văn hóa trên thế giới trừ văn hóa Trung Hoa, văn hóa Hy- La, và văn hóa Ai Cập. 

Thứ ba là về nguồn gốc văn hóa. Chữ Nôm có nguồn gốc bản địa, nguồn gốc Việt, mang đặc tính của văn tự Đông Á, chính vì vậy trong lịch sử, chúng ta từng nằm trong khối đồng văn (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên). Nói chữ Nôm là Việt bởi lẽ, nó là do người Việt sáng tạo, để ghi tiếng Việt, và cho người Việt dùng. Người Trung Quốc, người Nhật Bản, người Triều Tiên, không thể đọc được chữ Nôm, mà chỉ có người Việt mới đọc được. Còn chữ quốc ngữ là có nguồn gốc ngoại lại, nguồn gốc Tây Âu, do người châu Âu sáng tạo.

Thứ tư về thời điểm hình thành. Theo kết quả nghiên cứu của nhiều thế hệ học giả từ Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn đến Nguyễn Tài Cẩn…, chữ Nôm là sản phẩm văn hóa của thời đại Lý Trần, mà văn bản sớm nhất hiện còn là bản dịch Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh ghi lại tiếng Việt tiền cổ ở thế kỷ XII. Chữ quốc ngữ là sản phẩm được hình thành từ thế kỷ XVII, với một số văn bản do các giáo sĩ phương Tây viết trong quá trình truyền giáo.

Thứ năm về mục đích chức năng. Chữ Nôm ra đời từ nhu cầu nội sinh về mặt văn hóa. Người Việt đã sáng tạo ra thứ văn tự của riêng mình để ghi tiếng mẹ đẻ của mình, và quan trọng nhất là lưu giữ lại toàn bộ đời sống văn hóa của mình. Ca dao, tục ngữ, truyện tiếu lâm, thơ ca dân gian, thơ ca bác học, cho đến sinh hoạt làng xã …và muôn vàn yếu tố văn hóa cổ truyền Việt Nam khác, còn lại đến nay một phần đều nhờ vào sự truyền tải của thứ văn tự này. Về mục đích chính trị, việc các triều đại Lý- Trần- Lê- Nguyễn dùng song song chữ Nôm với chữ Hán là thể hiện ý thức tự cường về mặt văn hóa, đồng thời vừa là để hiểu và chống lại các thế lực của người Trung Hoa. Lối ứng xử này đến nay vẫn còn nguyên giá trị với tư cách là một bài học của cha ông? Trong khi đó, chữ quốc ngữ, thuở ban đầu, được làm ra là nhằm mục đích truyền giáo, rộng hơn là truyền bá văn hóa phương Tây, và nó chính là công cụ để người Tây Dương xâm lăng nước Việt. Léopold Pallu de la Barrière[2] đã từng phải thốt lên: “trong tất cả những rào cản hòng chống lại ta ở châu Á, chữ viết của họ là rào cản vững chắc nhất”. Nhận thức rõ điều đó, từ năm 1869 đến 1919, Pháp lần lượt ban hành các đạo luật G.Ohier, J.Lafont, Le Myre de Vilers và Albert Sarraut nhằm “diệt Hán – Nôm, hưng quốc ngữ”, nhằm tách dân chúng ra khỏi tầng lớp Nho sĩ, cô lập Đại Nam với các nước đồng văn và quan trọng nhất là “biến những đứa trẻ Annam trở thành người ngoại quốc trên chính đất nước của chúng” [trích lời Toàn quyền Paul Bert 1886][3]. Thực chất, về mặt lịch sử, đó là CUỘC CHIẾN TRANH VỀ CHỮ VIẾT được ngụy danh dưới cái tên “đồng hóa” (assimilation). 

Thứ sáu, về quãng thời gian sử dụng. Chữ Nôm được dùng ít nhất từ thế kỷ XII cho đến năm 1945, tức là thời gian sử dụng khoảng 700- 800 năm. Chữ Quốc ngữ được sử dụng từ thế kỷ XVII, mãi đến năm 1945 mới chính thức trở thành văn tự duy nhất của Việt Nam. Như vậy thời gian sử dụng của chữ quốc ngữ vào quãng 300 năm.

Thứ bảy về số lượng văn bản cổ hiện còn. Các văn bản chữ Nôm hiện còn lưu trữ ở Việt Nam (chủ yếu là Viện NC Hán Nôm), Nhật Bản, Trung Quốc, Ý, Hà Lan, Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Mỹ…quãng 1500 tác phẩm[4], với số lượng lên đến hàng trăm nghìn trang viết. Các văn bản chữ quốc ngữ có lẽ chỉ có hai trăm tác phẩm, và số lượng chỉ bằng 1/ 10 so với chữ Nôm (cả về đầu sách, và số trang sách).

Thứ tám, về nội dung đề cập. Chữ Nôm đề cập đến mọi vấn đề của cuộc sống người Việt trong vòng bảy tám trăm năm, từ văn học, lịch sử, y học, luật pháp, cho đến thư từ, gia phả, thần phả, khoán ước… Trong khi, chữ quốc ngữ chỉ giới hạn phần lớn trong các văn bản kinh thánh, thư từ của Thiên Chúa giáo.

Thứ chín, về sự góp mặt của các danh nhân. Chữ Nôm và văn học chữ Nôm đã trở thành sản phẩm văn hóa đặc hữu của người Việt, với hàng trăm danh nhân, văn sĩ. Hoàng đế Trần Nhân Tông – người đang được làm hồ sơ để công nhận là danh nhân văn hóa thế giới, là tác giả đứng ở “đầu mốc lịch sử” với hai bài phú Nôm, ca Nôm thế kỷ XIII. Danh nhân Chu Văn An người mở đầu thơ Việt với “Quốc ngữ thi tập (lưu ý từ thế kỷ XIX về trước, tất cả các văn bản chữ Nôm đều được người Việt gọi là QUỐC NGỮ hay QUỐC ÂM). Tuệ Tĩnh- vị Thánh thuốc Nam của người Việt, nổi tiếng với phương châm “thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt”, là nhà từ điển học đầu tiên với cuốn từ điển Hán Việt cổ nhất, là dịch giả có danh tính đầu tiên trong lịch sử dân tộc, là tác giả của nhiều bài thuốc Nôm trong thế kỷ XIV. Nguyễn Trãi- nhà thơ lớn, nhà chính trị lớn, danh nhân văn hóa thế giới, người đã làm nên nền văn học Việt, ngôn ngữ Việt với tập thơ “Quốc âm thi tập”. Lê Thánh Tông và các triều thần là tác giả của tập thơ Nôm Hồng Đức quốc âm thi tập - đỉnh cao khác của ngôn ngữ thơ Việt Nam ở thế kỷ XV. Và nhiều danh nhân khác như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Thế Nghi, Nguyễn Du, Tự Đức, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,… Trong khi đó, sự góp mặt của các nhân vật bên mảng quốc ngữ chúng ta chỉ thấy có một số ít giáo sĩ phương Tây như A. de Rhodes với Từ điển Việt Bồ LaPhép giảng tám ngày (tk XVII), hay Bento Thiện, Philiphe Bỉnh,… Theo ước tính của chúng tôi, thì số lượng danh nhân xuất hiện ở mảng chữ Nôm lên đến hàng trăm (đến nay chưa thể thống kê hết được). Trong khi đó số lượng tác giả chữ quốc ngữ cổ là ít hơn khá nhiều.

Với chín tiêu chí như đã nêu, chúng tôi thiết nghĩ, vấn đề đã khá sáng rõ, không cần phải thuyết minh thêm nữa. Việc chữ Quốc ngữ (Latin nguồn gốc Châu Âu) thay thế chữ Nôm (văn tự khối vuông, nguồn gốc Đông Á- bản địa) vào năm 1945 là do nhiều yếu tố và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nhưng với mục tiêu “đi tìm ngày kỷ niệm chữ viết dân tộc” như ý định của một số nhà nghiên cứu, chúng tôi thiết nghĩ cần phải có cái nhìn ở chiều sâu của lịch sử và cái bề rộng của văn hóa, cũng như cần phải dốc sức thực hiện những hoạch định có tính chiến lược cho tương lai văn hóa Việt Nam. Đến đây, xin mượn lời nhà sử học Dương Trung Quốc để kết thúc bài viết như là một cách ngỏ cho một vấn đề còn để ngỏ. 

Tôi cho rằng ý tưởng về ngày chữ viết của dân tộc rất hay và cần thiết. Nhưng vấn đề bức xúc hiện nay là nước ta có hơn 54 dân tộc, có rất nhiều loại ngôn ngữ, chữ viết khác nhau. Tại sao không đưa chữ Hán Nôm vào đời sống, tất nhiên không phải là sự trở lại mà là để gìn giữ văn hóa nước nhà? Có nhiều loại chữ nhưng chữ nào chuẩn hóa? Vì vậy, cần phải có Luật ngôn ngữ.

T.T.D
        Bài viết riêng cho Nguyễn Xuân Diện blog


[1] Xin chú ý, là chữ Hán và chữ Nôm không phải là chữ viết tượng hình như nhiều người vẫn hiểu mà là hệ thống chữ viết thuộc loại hình “ghi âm kiêm biểu ý”. Riêng chữ Hán, vào thời sơ thủy của nó, cách nay 2000-3000 năm, mới là chữ tượng hình.
[2] Trung úy hải quân thuộc Bộ Tham mưu- Tổng tư lệnh hạm đội vùng biển Trung Hoa và quân đội viễn chinh Pháp, Phó Đề đốc Rigault de Genouilly) [xem Lịch sử về cuộc viễn chinh ở Nam Kỳ năm 1861 (Histoire de l’expéditon de Cochichine en 1861 )].
[3] Triều Anh. Những trang sử cuối cùng của chữ Hán Nôm. Nxb Tổng Hợp Đồng Nai. 1999. Tr.
[4] Riêng Viện Hán Nôm (theo thống kê của GS Trần Nghĩa năm 1993), đã có 1373 cuốn. Chưa kể số sách sưu tầm trong 20 năm trở lại đây, và nhiều sách nằm ở nhiều thư viện khác trong nước cũng như nước ngoài. Ngoài ra cũng phải kể đến hệ thống sách chữ Nôm về kinh thánh cũng lên đến cả trăm cuốn, tiêu biểu như tác giả Majorica với Truyện các Thánh (dày 4000 trang, vào thế kỷ XVII).



0 nhận xét:

Đăng nhận xét