VĨNH BIỆT NGƯỜI CON YÊU DẤU CỦA DÒNG KIẾN GIANG
Nguyễn Thị Khánh Trâm*Tên ông là Nguyễn Kiến Giang , tên một con sông của đất Quảng Bình và con sông ấy lại chảy ngang chính ngôi làng nơi ông sinh ra nhưng tôi lại gọi ông là chú Kiên Giang giống như cách gọi của bố chồng mình.Tôi cũng không hiểu tại sao ông lại gọi như vậy nhưng tôi đoán rằng chữ “Kiên” là kiên cường và chữ “Giang” có nghĩa là con sông, dòng sông. Và, theo cách hiểu của tôi thì chú là một dòng sông kiên cường đúng như tính cách con người chú. Sáng nay ngày 2/12/2013 chú đã về nơi chín suối và đầu giờ chiều tôi mới biết tin-một cái tin không ai muốn nhận dẫu vẫn biết rằng sự sống thì vĩnh hằng còn đời người thì hữu hạn.
Chú Kiên Giang kính yêu ơi! Chiều nay từ đất phương Nam cách xa đất Bắc cả vạn dặm cháu ngồi nhớ lại những lần chú cháu gặp nhau. Lần cuối cùng là hè 2012 ở bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội rồi trước đó là những cuộc thăm viếng ngắn ngủi để cháu được nghe chú kể về những tháng năm đau buồn hay những niềm vui nho nhỏ của một đời cầm bút. Chính những năm tháng này đã tạc nên một “dòng sông kiên cường”- Kiên Giang. Lần nào ngồi bên chú cháu cũng học được nhiều điều. Cháu đã được đọc những trang viết của chú từ những năm tháng chưa có Internet, mọi người phải dấm dúi truyền tay nhau, phải tính toán xem những “tài liệu phản động” ấy đưa cho nhau lúc nào (và ở đâu) thì an toàn…Đọc những kiến thức về văn hóa, chính trị, tôn giáo…mà cứ vụng vụng trộm trộm, mắt nhìn lấm la lấm lét không khác gì phường trộm cắp xấu xa ( có đời thủa nhà ai lại vô lý và khổ sở như thế hả chú?) Một người công dân trẻ tuổi như cháu ngày ấy chưa hiểu biết gì về chính trị như bây giờ thế nhưng cháu cứ say sưa đọc “ Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác Lê Nin vào Việt Nam”, “ Khủng hoảng và lối ra”, “ Từ duy tân đến đổi mới”, “Công bằng xã hội và kinh tế”, “ Một cuộc chiến chống lại “phi lý tính”, “ Nhìn nhận thực trạng văn hóa Việt Nam hiện nay”, “ Một quan niệm về hiện đại hóa ở Việt Nam”, “ Đi tìm cách tiếp cận bản tính gốc người Việt”, “ Đời sống tâm linh và ý thức tôn giáo”…Chú đã cho cháu hiểu thế nào là sự thụt lùi của lịch sử với những dẫn chứng sinh động từ bài viết về phong trào Duy Tân với nhận xét đầy giá trị: “ Tuy nhiên, dứng trên bình diện lịch sử mà xét, chỉ riêng việc các nhà nho Duy Tân đề xướng dân chủ, văn minh, dân giàu nước mạnh…giữa một thế giới cạnh tranh quyết liệt, “mạnh được yếu thua”, cũng đủ để coi sự nghiệp của các cụ là một cống hiến vô giá cho công cuộc giải phóng dân tộc và hiện đại hóa đất nước. Cái hay nhất, cái sáng suốt nhất của các cụ chính là ở chỗ kết hợp hai mặt ấy với nhau thành một quá trình thống nhất. Nói cách khác các cụ đã đặt ra được một hệ vấn đề đúng. Và hệ vấn đề ấy vẫn đang đặt ra với chúng ta, sau gần một thế kỷ ”.
Con người chú từ chỗ say sưa với CNCS để rồi từ bỏ chủ nghĩa ấy với bao ĐỚN ĐAU. Chỉ có những người trong cuộc thì may ra mới hiểu hết được sự “đớn đau” này. Những người như cháu nếu có “đau” thì chỉ đau ngoài da, còn cái đau của chú là cái đau cấu từng thớ thịt, cấu nát con tim…bởi thế chú mới chia sẻ “ Đó là một cuộc tự lột xác, không phải không đau đớn. Bởi vì khi tôi viết xong để mình từ giã chủ nghĩa xã hội khoa học thì gần như không ăn, uống thì có, vì nó mệt quá…Bởi vì đây là một niềm tin, một cái gì đó rất thiêng liêng, mà tự mình phải lột bỏ đi. Cái đó là một sự đau đớn ghê gớm”.
Chú Kiên Giang ơi, kể từ ngày hôm nay chú không còn phải chịu thêm cái “đau” nào nữa như nhà triết gia kiêm sử gia trứ danh Phùng Hữu Lan đã nói: Hải khoát thiên không ngã tự phi / biển rộng trời cao ta vút bay. Thật lạ kỳ, hai học giả là chú và Phùng Hữu Lan cùng có cuộc đời đầy oan nghiệt. Viết những dòng chữ này cháu nhòe nước mắt. Hình ảnh chú lại hiện về. Cháu xin gửi tặng chú những dòng ghi chép về những cuộc gặp mặt trong quá khứ coi như đây là những lời cuối cùng của chú cháu mình chú nhé. Cho cháu gửi những lời thì thầm trong gió này để nhờ gió cuốn đi đến nơi chú nằm.
CÂU CHUYỆN NĂM 2009
Cuối năm 2009 chú Kiên Giang lại hành phương Nam. Lần này đi với chú có cả cô Lan, người đã nâng khăn sửa túi cho chú hơn nửa thế kỷ. Năm nay chú cũng cao tuổi nên đem theo cả chị giúp việc người Thái Bình.
Biết tin chú vô mình không bất ngờ vì hồi tháng 6 mình có đến thăm chú ở HN. Chú bảo : “Cuối năm chú sẽ đi Sài Gòn chơi và ở nhà Tú”. Mỗi lần nhắc đến Tú mình thấy mắt chú lại sáng lên và không quên nhắc lại lời nhận xét chú đã nói với mình nhiều lần: “ Tú thông minh lắm ”. Thấy chú vui mình rất thích.
Sáng 12/12 mình nhận tin nhắn của Phượng, thư ký của NNC Cao Tự Thanh anh cũng sẽ cùng đi thăm chú Kiên Giang. Lần này Tú chuyển nhà mới mình phải điện thoại hỏi anh Tuấn. Anh lại nhắn lộn địa chỉ, thay vì 10/12 anh lại nhắn 12/10 thế là mấy anh em cứ đi lòng vòng tìm mệt nghỉ, cuối cùng cũng đến nơi.
Khách và chủ thấy nhau đều rất vui. (Bốn người khách là Trâm, Hải , Cao Tự Thanh, Phượng.) Trông chú khỏe hơn hồi hè nhưng tiếng nói vẫn yếu phải ngồi sát bên mới nghe được. Chú nói chậm, thỉnh thoảng lại cười. Chú nhắc đến một số bạn bè ở Sài gòn, Đà Lạt và nhờ mình liên lạc : “ Trâm nhắn BMQ và LP đến chơi với chú nhé ”. Chú vừa nói vừa nhìn mình, ánh mắt gửi gắm tin cậy. Ngồi một lúc chú lại nhớ ra: “ Không biết cô Hợp có còn ở SG không ? ” Mình hỏi: “ Bích Hợp tâm lý dân tộc hả chú? ”. Chú gật đầu và lại bảo mình tìm cách nào liên lạc được với chị giúp chú….Mình thì lại không quen chị Hợp. Cô Lan cũng theo dõi câu chuyện nên bảo: “ Nghe nói Bích Hợp đi Mỹ rồi thì phải ”.
Thấy chú nói nhỏ và hơi khó nghe, anh Cao Tự Thanh đến ngồi bên. Hai người chuyện qua lại đầy thân tình. Chú giải thích cho bút danh “ Lương Dân” sau một số bài viết. Chú vừa cười vừa nói: “ Lương Dân có nghĩa là dân trả lương.” Ý nghĩa ghê. Đã lâu không gặp lại người thân, chuyện tíu tít. Nói đủ thứ chuyện rồi chú lại trầm ngâm: “ Chú nhớ bố cháu quá.” Nói xong chú nhận xét: “ Hải giống ông Độ ghê, nhìn Hải lại nhớ ông Độ.” Nghe chú nói cô Lan cũng đồng tình : “ Giống thật đấy ”.
Mình biết chú và bố là hai người bạn tri âm tri kỷ. Quãng đời 10 năm ( từ 1992 – 2002 ) đầy gắn bó, đầy kỷ niệm. Hàng năm bố vô Sài Gòn khoảng 3 tháng, ngoài thời gian này (theo bố và chú kể lại ) thì tuần nào cũng vậy, cứ mỗi thứ sáu vào lúc 9h sáng là chú lại đạp xe đến chơi với bố. Khi đi chú mang theo một cái túi trong chẳng có gì và lúc vể nếu bố có sách vở hay tài liệu gì chú cần mượn đọc thì mới sử dụng đến cái túi này.( Câu chuyện cái túi của chú có một tình tiết rất hay. Hồi hè mình gặp chú ở Hà Nội, chú kể: “ Ngày bố cháu bị an ninh theo dõi ngày đêm, có một lần chú đến chơi. Trước khi vào nhà, tay an ninh chặn lại hỏi giấy tờ và đòi xem cái túi, chú đưa ra, cậu ta thấy cái túi trống không mặt tiu nghỉu, đành trả lại chú…”. Chú vừa kể, vừa cười làm người nghe cũng thích thú.)
Về tuổi tác chú nhỏ hơn bố 7 tuổi. Bố tuổi hợi, chú tuổi ngọ. Năm nay chú 79 tuổi ( tính theo AL) cái tuổi “ xưa nay hiếm”. Nhớ lại lần gặp trước, năm 2004 hai năm sau ngày bố mất, chú vô Nam cũng ở nhà Tú, nhưng là nhà cũ bên quận Gò Vấp. Thế là đã 5 năm trôi qua, nhanh quá, như một cái chớp mắt. Nhớ lại ngày ấy chú vào đến nơi là điện cho mình biết ngay và hẹn đến chú chơi. Đó cũng là một kỷ niệm không thể nào quên. Hôm ấy là thứ sáu, ngày 14/5/2004 hai chú cháu hẹn nhau khoảng 15h chiều. Đúng hẹn, Hải chở mình ra chợ Hoàng Hoa Thám mua ít quà. Xong việc này trong đầu mình chỉ mong sớm được gặp chú. Thế rồi trên đường đi mình bị giật túi ( đó là chiếc túi nhỏ màu nâu trong chỉ có vài trăm ngàn và chiếc điện thoại di động. Câu chuyện ly kỳ này mình sẽ kể kỹ trong một dịp khác). Bị cướp giật bất ngờ, nhưng mình hiểu vấn đề và trấn tĩnh rất nhanh. Sau khi trình báo công an xong xuôi, hai vợ chồng mình lại tiếp tục đến nhà thăm chú. Đến trễ 30 phút, mình xin lỗi và nêu rõ lý do “ bất ngờ bị giật túi ” ba chú cháu cùng cười….
Thế mà đã 5 năm. Chuyện mình bị giật túi ngày nào tưởng chú đã quên. Mình thử chú: “ Lần trước chú vô là năm nào nhỉ? ”, chú bảo: “ 2004 ”. À thế là mình hiểu. Ở đời có nhiều thứ khiến người ta gắn bó với nhau, trong đó chắc chắn có một thứ, đó là TÌNH NGƯỜI.
MỘT LẦN ĐẾN THĂM CHÚ KIÊN GIANG
(5/2004).
Thế là sau một năm lại gặp chú vào Sài Gòn. Chú ở nhà Tú, mới chân ướt chân ráo vô thăm con lại bị ngã một cú từ trên giường lăn xuống đất. Thấy chú ngồi dậy khó khăn, mình đỡ một tay. Chú bảo: “ May phúc ông bà lớn nên chỉ bị đau ở xương cổ đôi chút nhưng cũng là cản trở về sức khỏe, không cho phép đi chơi ĐBSCL như đã định”.
Chú vô được ít hôm là điện cho biết ngay để hẹn vợ chồng mình đến chú chơi. Bữa đó vừa đi làm về mình nhận được điện thoại. Nhận ra giọng chú bên kia đầu dây, mình mừng lắm. Sau mấy câu thăm hỏi hai chú cháu hẹn nhau ngày thứ sáu 14/5 khoảng 3h chiều mình sẽ có mặt ở nhà Tú. Từ nhà mình đến chú mất khoảng 30 phút. Chiều hôm đó đúng 14h15 Hải chở mình ghé chợ gần nhà mua ít quà rồi từ đó đi luôn. Đến ngã tư Hoàng Hoa Thám – Cộng Hòa thì quẹo phải. Vừa đi được vài trăm mét, từ phía sau một xe áp sát mình rồi nhanh như cắt chiếc túi trên người mình không cánh mà bay. Sự việc xảy ra quá bất ngờ. Là người có phản xạ nhanh, mình túm được cái dây túi cố giằng lại, miệng ú ớ không nói thành lời khiến Hải không hiểu chuyện gì đang diễn ra ở phía sau nên giảm tốc độ lại. Lúc này dây túi đứt, mình ngẩn ngơ nhìn theo bóng hai thanh niên phóng vút đi. Vì cố giằng nhau với kẻ cướp nên ngón tay trái út của mình bị rách cả da. Sau mấy giây định thần, vợ chồng mình nhận định và hiểu được vấn đề (cũng may lúc đi mình quyết định không đem theo thứ gì ngoài vài trăm ngàn và chiếc điện thoại di động.) Chẳng kịp buồn Hải nghĩ ngay đến việc quay về nhà lấy hợp đồng điện thoại đi tạm cắt thuê bao kẻo kẻ cướp sử dụng gọi chùa thì “ đau hào” lắm ( trong trường hợp đó là “kẻ cướp” thật.) Có hợp đồng trong tay, hai đứa đến một cửa hàng điện thoại di động trên đường CMT8. Trong lúc ngồi chờ làm thủ tục thì Hải nhận được điện thoại từ nhà gọi đến. Đó là chị T, cô giáo dậy vẽ của con gái mình. Chị bảo công an gọi điện đến nhà thông báo cho biết đã bắt được tụi cướp cạn, trong lúc đang đi tuần bắt gặp quả tang nên đã đuổi theo tụi cướp và lấy lại tài sản cho Trâm. Mời Trâm đến công an phường 4 Quận Tân Bình nhận lại tài sản. Nghe thấy vậy, mình hối hả đến đồn công an. Sau khi nhận được chiếc túi, tiền và điện thoại Hải lại chở mình tiếp tục đi thăm chú Kiên Giang. ( Việc bị cướp này, khoảng vài tháng sau mình nhận được giấy mời của tòa án mời đến tham dự phiên tòa xét xử…nhưng mình không đi).
Việc bị giật túi bất ngờ nên giờ hẹn trễ mất nửa tiếng. Chú đón mình với tin nóng hổi. Nghe xong chú tủm tỉm cười. Cái cười của một người đầy trải nghiệm. Mình được nhìn thấy chú cười nhiều lần, nhưng lần này thật đặc biệt…Thế rồi ba chú cháu quên ngay chuyện này để bắt đầu những câu chuyện khác.
So với lần gặp trước, chú gầy và yếu nhiều. Mình thấy vậy nhưng không dám nhận xét. Mình chỉ nói: “ Chú phải khỏe đấy. Khỏe cũng là nhiệm vụ chú ạ ”. Sau một thời gian dài mới gặp lại chú nên mình mừng lắm. Quả là nhân duyên. Bố mình vẫn bảo: “Chú là một nhà lý luận hàng đầu Việt Nam”. Như thường lệ, chú nói chuyện nhỏ nhẹ, thân tình. Lần nào cũng vậy, nói chuyện với vợ chồng mình chú đều nhắc đến bố Độ. Hai ông bạn già này có rất nhiều tâm đầu ý hợp. Có những chuyện mình được nghe cả từ bố và chú. Hôm nay chẳng có bố Độ nhưng được nói chuyện với chú cứ như đang có bố trước mặt. Chú cứ tiếc là hai anh em có ý định sẽ một lúc nào đó cùng nhau đi Sài Gòn một chuyến thăm bạn bè phương Nam…vậy mà bố đi xa trước nên lời hẹn không thành. Mình nghe tâm sự của chú buồn quá, lòng bâng khuâng nhớ bố, không nói được câu nào. ( Thay vào đó hình ảnh đám tang lại tràn về, những cái cảnh úp mặt phải bức trướng vào tường để không ai đọc được, cảnh giật bỏ băng tang trên vòng hoa, cảnh kiểm duyệt câu chữ của người đến viếng…không thể nói gì hơn là nhân quyền bị chà đạp.) Bố có nhiều bạn, nhưng người hiểu bố và chia sẻ được rất nhiều điều thì không ai khác ngoài chú Kiên Giang.
Chuyện trò một lúc thì Tú đi làm về. Tú thay đồ rồi ngồi với khách .Tú là con gái của chú, lần đầu gặp mình đã thấy dễ gần. Thêm người, thêm chuyện. Nào chuyện xã hội, chuyện nhân tình thế thái, chuyện làm ăn…cứ thế trôi ào ào ( cả vui lẫn buồn). Chú cho biết lần này sẽ ở Sài Gòn khá lâu. Mình định hỏi chú một vài chuyện với tư cách là người trong cuộc nhưng thấy chú mệt và biết chú còn ở chơi lâu nên để dịp khác. Ấn tượng hôm nay của mình là chú rất vui. Chú nói: “ Ngồi với Trâm Hải hôm nay là lâu nhất so với ngày mới vào đây, vì chú bị mệt cứ phải vừa tiếp bạn ( chú Vấn) vừa nằm. Hôm nay vui quá ngồi được lâu ghê ”. Nghe chú nhắc đến chú Vấn, mình lại bùi ngùi. Chú là BS Vấn, người cũng có tên trong danh sách “ xét lại chống Đảng ” ngày nào. Bây giờ thì đã ba năm rõ mười. Đảng nhận sai lầm nhưng cuộc đời của các chú đã bị vùi dập. Những con người bị đánh cắp tương lai….
Bên ngoài trời chạng vạng tối, mình xin phép chú ra về mặc dù rất muốn ngồi thêm vì còn cả bụng chuyện chưa nói hết. Trước khi chia tay, mình hẹn chú và Tú thu xếp một buổi đến mình chơi và chú đã nhận lời.
CUỘC ĐỜI NGHIỆT NGÃ
Hôm qua, chủ nhật ngày 23/5/2004 mình vừa đi Mỹ Tho về Tú gọi điện thoại hẹn đưa chú Kiên Giang lại nhà thăm nơi ở cũ của bố Độ và thăm gia đình Trâm Hải. Mừng quá, Hải và mình chạy vội lên khách sạn Equatorial mua bánh mì đen và bánh ngọt, trên đường về mua thêm Jambon, chả lụa, ít trái cây. Chuẩn bị xong xuôi thì vừa lúc gia đình Tú ( ông xã và cậu con trai ) cùng chú vừa đến nơi. Vừa bước vô nhà, chú hỏi mình: “ Trước đây bố cháu ở đâu ?”. Mình dẫn chú bước chậm rãi về phía cuối căn nhà. Đây nhà phòng của bố Độ mỗi lần bố vô Nam. Căn phòng đơn sơ với chiếc giường đơn rộng 1,2 m. Phía đầu giường là cái giá đầy ắp sách, kế bên là chiếc bàn gỗ trên để đèn bàn vì bố thường hay ngồi viết ban đêm. Sát lối vào có đặt bộ bàn ghế nhỏ chỉ đủ chỗ cho hai người, là nơi bố thường ngồi đọc sách và uống trà. Chú lặng lẽ nhìn căn phòng còn mình lại nhìn chú, trong đầu nhớ đến câu chú nói với mình hôm bố mất: “ Xúc động thì vô ngôn ”.
Từ hôm bị ngã, chú đi lại rất khó khăn, ngồi lâu cũng mệt. Ngồi ở phòng ăn không tiện, mình dọn đồ ăn ra phòng khách nơi có bộ salon dựa lưng khá êm. Chú ngồi đó mình mới yên tâm. Vợ chồng mình quý chú nên chủ và khách không mầu mè khách sáo. Chú ngồi chơi, ăn ngon cứ nói: “ Định không ăn uống gì cuối cùng lại ăn no quá…” ( chẳng là Tú cốt ý không báo trước, chỉ điện thoại hẹn đến chơi rồi về, không cho mình bày vẽ gì cả). Vừa ăn mọi người vừa nhắc đến cái thời bao cấp. Ngày ấy không mấy khi được ăn no. Ai ai cũng thiếu ăn, ai ai cũng lo toan. Rồi thì thiếu điện, thiếu nước. Thiếu điện thì dùng đèn dầu, thiếu nước thì đêm đêm phải hứng từng giọt. Nói đến đây mấy chú cháu đều nhớ đến câu nói rất phổ biến thởi ấy mà ai cũng biết: “ Cả nước lo việc nhà, nhà nhà lo việc nước ”. Câu chuyện trở nên rôm rả nhất là bàn đến cái ăn. Ngày nay cũng vẫn chủ đề ăn này, hầu hết các bà nội trợ lại thường bảo nhau: “ Không biết ăn cái gì? ”
Chuyện xưa, chuyện nay đan xen nhau. Cuối bữa ăn chú kể về những ngày đi tù. Chuyện này có liên quan đến vấn đề “ Xét lại chống Đảng ” mà chú là một trong những người nằm trong cái bản danh sách oan nghiệt ấy. Mình lắng nghe mà tim cứ đập thình thịch. Chú nói chậm rãi về cái quá khứ như ta xem lại một cuốn phim. Họ bắt chú ngày 18/10/1967. Đó là một ngày định mệnh. Chú được thả năm 1976. Rất trớ trêu là khi bắt thì có lệnh, nhưng khi thả thì chẳng hề có một thứ giấy tờ gì. Đúng ngày bắt chú, ông Lê Đức Thọ còn gặp chú và nói rằng: “ Đảng không bỏ tù các anh đâu ” vậy mà chỉ một tiếng sau đó chú bị đưa lên xe và chuyến “ không bỏ tù” ấy dài đằng đẵng hàng chín năm trời… Những ngày trong tù chú bảo đói khổ chú không sợ, mà sợ nhất là quá thừa thời gian, nhưng chú đã biết sử dụng khoảng thời gian ấy để đọc và học thuộc lòng cuốn Bách Khoa Toàn Thư bằng tiếng Nga từ A đến Z. Ngoài ra chú còn dặn gia đình mang cho chú sách toán, lý để chú luyện trí óc: “ Buổi sáng lấy toán ra học, đọc bài toán đố, sau đó suy nghĩ cách giải. Đến chiều giở sách ra so sánh kết quả…cứ như vậy để thời gian trôi nhanh”. Mình nghe phục chú quá và còn tự dặn mình phải ghi nhớ kinh nghiệm này để viết lại phổ biến cho nhiều người nghe mà chẳng may thời cuộc đưa đẩy “ được” đi tù. Có chi tiết này chú kể nghe thật khôi hài. Đó là có lần chú yêu cầu giám thị nhắn gia đình gửi cho bộ truyện “ Chiến Tranh và Hòa Bình ”. Họ chẳng hiểu đó là một bộ tiểu thuyết sử thi nên không cho nhận mà còn khuyên chú: “ Dính đến chiến tranh và hòa bình phức tạp lắm, anh đừng nên đọc làm gì…” như vậy có những thứ sách họ cho nhận, có thứ không. Kể lại thời đau buồn đầy ẫu trĩ đó chú tâm sự: “ Tuy một số anh em có những bất đồng chính kiến, nhưng tất cả không ai đầu hàng hay hóa điên. Đó là tốt lắm rồi! ”. Nhắc đến cuốn sách viết gần đây của Vũ Thư Hiên “Đêm Giữa Ban Ngày” chú nói: “ Thằng Hiên nó viết ban ngày nhưng đã bao giờ có ban ngày đâu?”. Chú nói xong là cười liền. Thế rồi tiếp luôn: “ Chú đang viết cuốn trải và nghiệm , viết được 200 tr rồi khi nào xong sẽ cho Trâm.”
Chuyện đời chú đầy nước mắt. Nhưng những người được biết về cái thời “ oan nghiệt và cay đắng ” này không nhiều. Lý do là bị bưng bít thông tin. Mặc dù gây ra ( cái này phải gọi là tội ác) nhưng Đảng chỉ nhận là “sai lầm” và hình như cũng chưa chính thức xin lỗi các nạn nhân. Thế là không sòng phẳng. Nếu kể theo trình tự thời gian tính từ ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc 1954 cho đến cuối thế kỷ 20 thì cái tội ác này lần lượt sẽ là: Cải cách ruộng đất, Nhân văn Giai phẩm, Xét lại chống Đảng, hậu Nhân văn ( tiêu biểu là vụ án “Về Kinh Bắc”), đàn áp và trừng trị các thành viên của CLB những người kháng chiến cũ ( một thời là các đồng chí của Đảng, trong đó nhiều người có chức vụ cao)… Không ai nói ra nhưng trong đầu mỗi người thì đầy rẫy những câu hỏi “ Tại sao? ” và mình lại nhớ đến câu than thở của bố: “ Bây giờ chẳng có lý tưởng gì nữa mà chỉ còn ước mơ thôi! ”. Vâng, ông là tác giả của bài viết cho thanh niên lừng danh một thời: “ Lý tưởng, ước mơ và nghĩa vụ ” bây giờ chỉ còn một vế…
Người lớn thì tâm sự chuyện đời, trẻ con thì vô tư nô đùa. Bữa cơm hôm nay có đủ ba thế hệ. Chủ yếu mình nghe chuyện đời chú và tận tai chứng kiến cái thời đen tối nhất của một con người. Chẳng biết nói gì hơn là thốt lên hai từ ĐAU ĐỚN! ( bởi đó là cái thời trẻ trung, xung mãn nhất của một đời người). Đang chuyện buồn thế rồi thoát ra lúc nào không hay. Chú kể chuyện sinh hoạt. Hàng ngày chú vẫn làm việc hai buổi, mỗi buổi 45 phút. Mình chỉ mong sao chú thật khỏe để chứng kiến ngày lịch sử thay đổi, trả lại công bằng cho mọi người, cho những người như các chú. Theo dõi thời sự hàng ngày, chú rất buồn là vừa qua nhà nước làm lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ ( 1954 – 2004), họ chẳng nói gì đến tướng Lê Liêm, tướng Đặng Kim Giang. Hai vị tướng trong bộ tư lệnh chiến dịch cùng với tướng Võ Nguyên Giáp và tướng Hoàng Văn Thái. Chú hay so sánh bố Độ với Tướng Lê Liêm. Chú nhận xét nhiều nhưng mình nhớ nhất là họ có nhiều nét giống nhau: thẳng thắn, chân tình.
Hai người, bố và chú bắt đầu thân nhau từ 1992 và gắn bó suốt 10 năm trời. Hàng tuần cứ thứ sáu chú lại đạp xe đến chơi với bố, ngày nắng cũng như ngày mưa. Đó là những năm tháng chú có nhiều kỷ niệm với bố. Chú bảo: “ Trong hàng ngũ lão thành chỉ có bố cháu là vượt được cái ngưỡng, từ bỏ được CNCS…”
Thưa chú Kiên Giang, chú đã mang tên một dòng sông- một DÒNG SÔNG KIÊN CƯỜNG. Tên tuổi và những đóng góp của chú sẽ được lịch sử mãi mãi khắc ghi. Chú là một DÒNG SÔNG TRI THỨC. Cũng như “ Tất cả những dòng sông đều chảy ” dòng sông Kiên Giang sẽ mãi mãi không bao giờ ngừng trôi, nguồn tri thức vô giá mà chú để lại cho đời sẽ đi bốn phương trời, sẽ vượt đại dương còn dòng sông Kiến Giang mãi mãi chảy qua ngôi làng của chú ở huyện Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình, nơi có con người thuộc số tri thức hàng đầu Việt Nam đã dâng hiến hết mình để khai sáng và làm gương cho các thế hệ tri thức Việt hôm nay và mai sau.
Vĩnh biệt chú, người con yêu của đất Quảng Bình và của Mẹ Việt Nam.
“ Biển rộng trời cao ta vút bay ” chú nhé !
N.T.K.T
___________
*Tác giả là nhà nghiên cứu văn hóa, và là con dâu của Tướng Trần Độ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét